Đàn bà đêm

10:38 30/12/2014

Edwidge Danticat ra đời tại thành phố Port-au-Prince, Haiti năm 1969. Đậu Cử nhân Văn Học Pháp tại Barnard College, và Thạc sĩ Nghệ Thuật tại Brown University, cô hiện đang giảng dạy tại New York University (NYU).

Những truyện ngắn của cô đã xuất hiện trên 25 tạp chí văn chương và góp mặt trong một số tuyển tập. Ngoài một số tác phẩm cô biên tập hoặc viết chung với người khác, cô đã xuất bản một tập truyện ngắn và năm cuốn tiểu thuyết. Danticat từng nhận nhiều giải thưởng văn học danh giá, và tác phẩm của cô được dịch sang tiếng Đại Hàn, Ý, Đức, Pháp, Tây Ban Nha và Thụy Điển.

EDWIDGE DANTICAT

Đàn bà đêm

Tôi co mình lại vì hơi nóng của đêm trên mặt. Tôi cảm thấy trần trụi như rách toạc da thịt. Đêm nay tôi già hơn nhiều so với hai mươi lăm năm tôi đã sống. Đêm là thời gian mà tôi kinh hãi nhất trong đời. Tuy nhiên nếu tôi muốn sống, tôi phải tùy thuộc vào nó.

Những bóng người chập chờn trên tấm màn ren khi con tôi trèo vào giường. Tôi nhìn nó duỗi mình lớn dậy từ một thằng bé thành một gã đàn ông dong dỏng, chiều cao của cơ thể nó vươn lên ngăn căn nhà một gian thành hai khoảng không gian, hai tấm chiếu, hai thế giới riêng biệt.

Trong khoảnh khắc, tôi suýt lầm tưởng nó với hồn ma của bố nó, một người tình cũ mất dạng từ lâu cùng với những chiếc bóng trong đêm. Giường của nó nằm nơi góc phòng, cách xa tấm sáo rèm mỏng mảnh. Tôi nhìn nó vùi đầu vào gối tạo ra những nếp nhăn. Nó xoay trở thân thể nhỏ nhắn của mình thật cẩn thận để khỏi làm nhàu bộ đồ vía mặc vào Chủ Nhật. Nó quấn chiếc khăn quàng dài đỏ thắm của tôi quanh cổ, chiếc khăn quàng mà tôi làm duyên để quyến rũ khách. Tôi cho nó khoác vào ban tối, để lúc nào nó cũng có một vật gì đó của mẹ khi tôi không ở cạnh.

Tôi nhìn bóng nó đứng im trên màn rèm. Mắt tôi bị hút vào nó, như những vì sao soi xuyên qua những lỗ thủng nhỏ trên mái nhà, những lỗ thủng mà không một vị khách nào sửa giúp, vì họ muốn nhìn mảng trời đêm khi nằm trần truồng trên chiếu.

Một con đom đóm bay quanh phòng, lượn đến với thằng bé mà không đến với tôi. Có lẽ nó là một con muỗi đã học được phép hóa lửa mầu nhiệm. Thằng bé luôn đập chết những con muỗi đậu trên mặt mà không hề tỉnh giấc. Sáng dậy, trên trán nó dính những vết máu nhỏ tí, như thể suốt đêm qua nó đã mải miết hôn một người đàn bà có những vết thương lở loét khắp mặt.

Trong giấc ngủ, nó lăn trở và ú ớ như thể nó đã tìm được niềm khoái lạc trong việc rờ rẫm chính mình. Hai mẹ con chưa hề nói chuyện về tình yêu. Nó cần phải biết những gì đây? Tình yêu là một trong những bài học mà khi lớn lên bạn sẽ biết, như cách bạn biết chiếc giầy nào vừa với bàn chân để khỏi bị khó chịu.

Có hai loại đàn bà: đàn bà ngày và đàn bà đêm. Tôi thì bị kẹt giữa ngày và đêm, kẹt trong một màu đồng vàng hổ phách. Mắt tôi màu đất, gần như màu vàng đồng nếu tôi đứng trong nắng. Tôi muốn bới mái tóc mình thành những lọn xoăn ngay từ khi tôi vừa học được cách bới cả đầu tóc mà không làm cho đôi tay mình tê cứng.

Hầu hết mọi đêm, tôi nghe một lời thầm thì nho nhỏ. Thân tôi tê dại khi tôi tự hỏi sẽ mất bao lâu để thằng bé vượt qua tấm màn và tìm thấy tôi.

Nó gọi, “Mẹ…”.

Thì tôi nói, “Cưng yêu”.

Chẳng hiểu sao vào ban đêm, nó luôn thì thầm gọi tôi. Tôi nghe tiếng o o từ cái máy ra-đi-ô của nó. Âm thanh giòn như tiếng của một lon Coca. Một trong những gã theo đuổi tôi đã cho nó để nhét vào tai lúc đi ngủ trong khi má làm việc.

Ở Ville Rose có một nơi những hồn ma đàn bà cưỡi những con sóng trong khi chải những vì sao rời khỏi tóc họ. Nơi đó, những hồn ma tán tỉnh người đi dạo và để lại những vì sao trên lối đi. Có nhiều đêm, tôi tin rằng những hồn ma đó đang hiện hữu cùng tôi. Tôi cũng biết có những người đàn bà thức trắng đêm để gỡ những mảnh vá mà họ đã khâu được trong ngày. Những người đàn bà này cố ý phá bỏ thành quả cực nhọc của chính họ để luôn có việc để làm. Và khi có việc để làm thì họ sẽ không phải nằm bên linh hồn bất động của người đàn ông còn nồng mùi chăn chiếu với một người đàn bà khác.

Cách thằng bé phản ứng với những cái hôn lên má báo cho tôi biết rằng nó đã ngủ chưa. Nó như con bướm rập rờn bay trên hòn đá trơ trụi nằm giữa dòng suối. Đôi khi tôi thấy trong ánh mắt nó niềm mong đợi cho một điều gì còn to lớn hơn cả chính tôi. Hai mẹ con như hai người tình xa cách, nói dối nhau, dưới những vầng trăng khác nhau.

Tranh minh họa: Lê Minh Phong

Khi ngón tay út tôi mơn trớn đường nhân trung dưới mũi nó, thỉnh thoảng lưỡi nó lè ra liếm móng tay tôi. Nó rên lên rồi quay đi chỗ khác, có lẽ nó nghĩ điều đó là một phần của giấc mộng.

Tôi thì thầm kể những câu chuyện về núi của tôi, những mẩu chuyện về những hồn ma đàn bà và những vì sao được cài trên tóc họ. Tôi kể cho nó nghe về những con rắn độc nằm ở một đầu của cầu vồng và chiếc mũ đựng đầy vàng nằm ở đầu kia. Tôi kể rằng nếu tôi vượt qua được dòng suối đầy nhánh dâm bụt trong suốt, tôi sẽ trở thành một nữ thần. Tôi hà hơi nhẹ vào hàng mi dài của nó để xem nó đã ngủ say chưa. Những ngón tay tôi uốn thành những hình chim đậu trên mũi nó. Tôi muốn nó quên đi việc chúng tôi đang sống trong một nơi không có điều gì là vĩnh cửu.

Tôi biết đôi khi nó cũng thắc mắc sao tôi lại quá bận tâm như vậy. Sao tôi lại vẽ những mảnh trăng khuyết lên trán lấm tấm mồ hôi và rắc những bột phấn hồng lên hai gò má. Tôi mặc cho nó bộ đồ đẹp được gấp nếp cho ngày Chủ Nhật, và bảo rằng mình đang chờ đợi một thiên thần dịu dàng, và thiên thần giáng trần nơi nào thì gia chủ nơi đó phải đẹp như những hoa dâm bụt nổi trên dòng suối vậy.

Trong khi ngủ, tay nó kéo tung những nếp gấp. Nó liếm môi vì viên kẹo đường cuối cùng mà nó đã chôm được trong ví của tôi.

Thôi nào, đủ rồi nhé, nếu không răng của con sẽ trở nên đen xỉn mất. Tôi đã quên bảo nó dùng lá bạc hà để chà răng. Nó không biết rằng một ngày nào đó một người đàn bà như mẹ sẽ đánh giá nó bởi độ trắng của hàm răng.

Chẳng mấy chốc nó ngáy nhè nhẹ. Tôi lắng nghe giọng cười bẽn lẽn từ những giấc mơ đẹp nhất của nó. Giấc mơ về những thiên thần phóng qua đầu nó, thỉnh thoảng nhón những gót chân hồng trên mũi nó.

Tôi nghe nó hát thầm ậm ừ một bài hát. Một trong những khúc ca mà họ dạy trẻ con vào những buổi trưa nóng bức trong trường học. Kompè Jako, domé vou? Kìa con bướm vàng, kìa con bướm vàng. Xòe đôi cánh…

Hàng râm bụt lao xao trong đêm, ngoài kia. Tôi hát theo để ru nó ngủ. Tôi đánh thêm một lớp phấn đỏ Ai Cập lên má. Trong phấn có lấp lánh hạt kim tuyến để khách dễ dàng nhận ra tôi trong bóng tối.

Tối nay Emmanuel sẽ đến. Ông ta là bác sĩ, ông thích đàn bà mông to, mông tôi tuy nhỏ nhưng vẫn hấp dẫn. Ông đến vào những ngày thứ Ba và thứ Bảy. Ông mang hoa đến, như thể để tán tỉnh tôi. Tối nay ông ta tặng tôi những cánh hoa giấy. Hoa luôn luôn là một điều ngạc nhiên thú vị.

Tôi hỏi, “Vợ anh thế nào?”

“Bà ấy không đẹp như em.”

Những ngày thứ Hai và thứ Năm là phiên của một tay chơi đàn ắc-coóc- đi-ông tên Alexandre. Hắn thích giả tiếng của cây đàn ắc-coóc-đi-ông bằng miệng vào tai tôi. Suốt thời gian còn lại trong đêm, hắn lắc lư cạ cái đầu trái gấc lên rốn tôi.

Nếu thằng bé thức giấc, tôi đã chuẩn bị sẵn những lời ngụy biện. Rồi một ngày nào đó, nó sẽ đủ lớn để không bị mẹ xí gạt rằng người đàn ông lang bạt này là một ảo ảnh, và thân thể trần truồng ấy chỉ là một giấc mơ. Tôi sẽ nói với nó rằng bố nó đã đến, rằng một thiên thần đã mang ông về từ thiên đường trong chốc lát.

Những ngôi sao chậm rãi trượt khỏi lỗ thủng trên mái nhà trong lúc ông bác sĩ chìm sâu, sâu mãi dưới thân tôi. Ông ta nhịp mạnh và hổn hển thở. Tôi bịt miệng ông lại để ông khỏi gào lên. Tôi thấy gương mặt vợ ông trong những giọt mồ hôi chảy ròng xuống cằm ông. Ông ra về, cả người đẫm sương tiết ra từ da thịt chúng tôi. Ông gọi tôi là trận tuyết lở, là thác nước...

Sau khi ông về lúc rạng sáng, tôi ra ngoài ngồi hút một điếu thuốc lá vấn. Tôi nhìn những người đàn bà làm công đi bộ thành hàng đến khu chợ trời cách nơi họ ở gần nửa ngày đường. Tôi cám ơn những vì sao, vì ít gì đi nữa thì tôi cũng hưởng được những ban ngày cho riêng mình.

Khi trở vào nhà, tôi nghe tiếng thở đều đều của thằng bé. Tôi vội áp mặt vào môi nó để cảm nhận hơi ấm bình yên thoát ra từ miệng nó.

“Mẹ ơi, con lại hụt mất những thiên thần nữa rồi…”. Nó thì thầm âu yếm, với tay ôm lấy cổ tôi.

Tôi trườn vào giường, nằm xuống bên nó, và ru nó ngủ lại.

“Đừng lo, con yêu. Các thiên thần có cả cuộc đời để đến với chúng ta mà.”

Thận Nhiên dịch  
(SH310/12-14)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp. 

  • AMBROSE BIERCE   

    Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse.

  • Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.

  • THOMAS VINT

    L.T.S: Thomas Vint người Estonia, năm nay 49 tuổi. Hiện ông viết văn và sống ở Estonia (Liên Xô). Ngoài khả năng viết văn xuôi, ông còn thích vẽ. Ông đã từng triển lãm tranh ở Pháp vào năm 1988. Ông cũng đã tự minh họa cho tập truyện ngắn đầu tiên của mình.

  • JOSHUA BROWN (Mỹ)  

    “Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
    Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”

  • RAY BRADBURY

    Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.

  • Thomas Burke (1886 - 1945) sinh tại Clapham, ngoại ô thành phố Luân Đôn, nước Anh. Cha chết khi còn rất nhỏ, ông sống với người chú, sau được gởi vào một cô nhi viện.

  • JORGE LUIS BORGES

    Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.

  • CLAUDE FARRÈRE

    Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.

  • HERMANN HESSE
    (Nhà văn Đức, Nobel văn học năm 1946)    

    Trước đây, một chàng trai trẻ có tên là Ziegler đã sống ở ngõ Brauer. Anh là một trong những người thường xuyên ngày nào cũng gặp chúng tôi ở trên đường phố và chưa bao giờ chúng tôi có thể ghi nhớ chính xác khuôn mặt của những người ấy, vì tất cả bọn họ cùng có khuôn mặt giống nhau: một khuôn mặt bình thường ở giữa đám đông.

  • Nhà văn Nenden Lilis A. sinh tại Malangbong-Garut (Tây Java) năm 1971, là giảng viên khoa Giáo dục và Văn chương tại Indonesian Education University ở Bandung.
    Truyện ngắn và thơ của bà đã in trên nhiều ấn phẩm trong nước. Bà cũng thường được mời nói chuyện tại các hội nghị văn học cả ở trong nước và nước ngoài (như Malaysia, Hà Lan và Pháp). Thơ của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Hà Lan và Đức.
    Truyện ngắn dưới đây được John H. McGlynn dịch từ tiếng Indonesia sang tiếng Anh.

  • ALEKSANDAR HEMON

    Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy. 

  • Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.

  • LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.

  • LTS: Giải thưởng danh giá Goncourt của văn chương Pháp năm 2015 với tác giả là nhà văn Mathias Enard do Nxb. Actes Sud (Pháp) xuất bản.