Tập thơ "Khuyết" của Phan Quỳnh Dao - Ảnh: phongcachla.com
PHAN QUỲNH DAO Sông chảy hương tràn Nghiêng một dòng vỡ, xanh sông trôi Cha đi từ độ sông lở sông bồi Hương lên dâng trời, trái tim Hương chạm Thơm vẫn tràn, Hương mở xa xôi* Soi, ngàn năm cũ, đáy biếc long đen Trưa Vĩ Dạ lá trúc in thềm Con thuyền nhỏ, bến đời, múa tít tắp Tôi bước qua ngày con nắng buồn tênh Chạm ngực sông xanh, một vùng lặng lặng Tôi ở đầu sông hay cuối sông Ôi! Khóc, thao láo chòm sao bằn bặt Trăng qua đầu, sông chảy qua tôi -------------- * Người Pháp gọi sông Hương là Rivière de Parfums (nghĩa là sông tràn hương thơm ngát) Buổi chiều hòa âm cung đô trưởng Em không thể bước qua buổi chiều tiếng chuông rụng nước mắt ngọn lông măng vàng mượt hoa cúc tháng ba, chiều nhiệt đới những ma-na-canh khuôn sọ ngó nghiêng nham thạch, triền vực đá, hứa hẹn những yên tĩnh Có thể đã không cần một điểm hẹn, ly cà-phê bún bò Huế, cơm tấm vỉa hè chiều cứ phi vào vô sắc vô tướng dự cảm bất định màu đen của đóa quỳnh khói lam mây biếc cận thị nặng mắt trổ cửa suy nghĩ Anh nằm khoanh giữa bài thơ phát tiết trắng đêm phẳng vừa trốn chạy vào vĩnh cửu ngực em cất nỗi đau thủy tinh của giai điệu đá xù xì khoái cảm mọc rêu xanh em khuếch tán vào bất tận hệ số chia tàn lửa chén trà đắng xướng danh húp cạn môi Đã không còn cần vòng tay của hòa âm cung đô trưởng em tự biện bằng những bóng râm mặt nạ một thứ tâm bệnh nồng nàn lửu hiện hữu độ chín của lưỡi đỏ hơn ngọn đèn hạt đỗ... Điên trưa Con nước đen xô dạt bóng vía rũ rượi xõa tóc đen đẩy tôi về âm u phố khát trưa hạ đỏ những ngón gầy vốc xơ xác niềm tin em hi ha cười khô nắng mắt nhân gian chớp trắng xanh hoài nghi Thượng đế biến mất Heideiger tồn sinh với mặc cả Thời gian chảy qua kẽ tay không phải ngày xưa không phải hôm nay em trần trụi hỏi mua gì nhân phẩm, áo cơm, niềm tin, cứu rỗi cây cong thành dấu lặng nốt nhạc hóa gỗ đá vô tri Máu loạn chảy & những di căn bất trị thiếu nữ nhan sắc mắt lệ xanh khóc tình phụ vệt lõm hốc mắt tim cành sâu rãnh nhăn nheo ký ức phá sản hóa nỗi buồn thành quách điên trưa. (265/3-11) |
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi