PHẠM TRUNG NGHĨA
Ảnh: Internet
Viết về mẹ
Mẹ tôi như chiếc áo đã bạc mầu năm tháng
Từng giọt mồ hôi chở giấc mơ tôi
Đi qua mùa thóc lép
Qua cả những mùa trăng
Ngày tôi đi thành con đường, in hằn dấu chân mẹ
Đôi bàn chân gầy gò lam lũ
Chạy nắng mưa một thủa
Gánh tôi đi
Mùi quê hương hay mùi của mẹ
Thổi làn khói ra đồng
Cho lũ trẻ con ám nồng hương cơm mới
Cho con trâu phì phò thở vội
Cho ngày hết hạn đuổi những vì sao lên trời
Cho tuổi thơ tôi lon ton vào kí ức mẹ, à ơi...
Đời mẹ như cánh lục bình, trôi đêm
Trả cho tôi cả khoảng trời tươi sáng
Chiều nay, tôi vẫn đi trên con đường in dấu chân mẹ
Tấm áo mới không ngăn được tấm lưng mẹ còng như những ngọn tre
Tôi nhìn như quặn ruột
Mẹ cười như bà tiên và đang quét lá sân nhà
Mẹ để ký ức rơi trên mái nhà
Lẩn khuất vào trong tiếng kinh Phật
Chỉ còn tiếng mõ vang xa, vang xa
Cõi tạm xa dần ngôi nhà mẹ tôi.
Tiếng đêm
Như mặt trăng vỗ về bầu trời
Cái ngày nắng tắt
Mây không tìm được đường về nhà, trôi lang thang
Về một ngày anh gặp em
Má em hồng một thủa
Cây bàng non kéo mùa lá trổ
Đợi đêm về cho một giọt sương
Anh không thể kể cho lũ trẻ con nghe về tiếng của đêm
Bởi chúng còn bận ngủ
Và chỉ còn tiếng của anh thở dài trong nẫu ruột
Tiếng của những con dế rống riết kêu tìm bạn
Tiếng loài cú săn đêm
Tiếng của những đám rêu ăn sương
Và vô vàn tiếng khác....
Đêm tự cắn vào lưỡi mình, cho yên lặng
Rồi thả điệu nhảy ánh sáng của trăng
Soi gương mặt em huyền bí
Vỗ về anh một giấc mơ tình
Anh kéo ngôi sao băng vừa lướt qua mái nhà
Để vào ngăn tủ
Cho ánh sáng của vũ trụ, treo đỉnh đầu
Tiếng gà gáy vang về một đêm nhọc nhằn trong giấc ngủ
Con chim cú mèo về tổ
Mọi loài vừa thức giấc
Và bình minh vừa mới xóa sạch hơi thở và vũ điệu của đêm
(TCSH373/03-2020)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi