Chơi với người tử tế

09:55 25/01/2010
TRẦN KIÊM ĐOÀNMùa Hè năm 2007, từ Huế chúng tôi chuẩn bị ra thăm Hà Nội lần đầu. Trên ga Huế, chờ chuyến Tàu Đỏ xuyên Việt buổi chiều, nghe một người bạn chưa bao giờ gặp là anh Văn Thành nói trong điện thoại: “Cậu hên quá! Hà Nội đang nắng gắt bỗng dưng hôm qua lại có gió mùa Đông Bắc. Bây giờ Hà Nội như mùa Thu”.

Nhà văn Trần Kiêm Đoàn - Ảnh: phusaonline.free.fr

Nhìn mái tóc trắng phau của Trần Hoài, bạn cùng lớp thời sư phạm, vẫy tay trên sân ga khi tàu chuyển bánh, chưa bao giờ tôi cảm nhận một hình ảnh mùa Thu quê hương đầy quyến luyến đến như thế. Mùa Thu tuổi đời, mùa Thu trong lòng người và mùa Thu Hà Nội. Gần ba chục năm sống ở xứ người, đã tới khá nhiều thành phố thủ đô loanh quanh thế giới. Nhưng mãi đến tuổi về hưu mới được viếng một cố đô Thăng Long của nước mình mà mình đã được học và đọc từ khi còn nhỏ.

Sau một đêm thức trắng, nói chuyện mưa nắng và kinh nghiệm du lịch đó đây với cặp vợ chồng người Anh cùng ở chung khoang tàu tới du lịch Việt Nam lần đầu, tôi không nghe mệt mỏi khi tàu tới bến ở ga Hàng Cỏ mà cảm thấy vui vui vì có người xứ khác nói những điều ưu ái về đất nước của mình. Tới Cửa Bắc, ăn tô phở Hà Nội đầu tiên nơi quán phở đầu hẻm, tôi có cảm tưởng Hà Nội trông nhạt mà nếm đậm như ly rượu trắng. Tô phở trong, không rau, không giá, không rình rang tiêu hành ớt tỏi. Tô phở nhỏ xíu so với tô phở xe lửa Bolsa ở Cali to gấp bốn năm lần. Hương vị vô danh mà vẫn thơm, ngọt và tươi tắn. Tôi cười một mình khi cô hàng phở, chìa tô phở đầu nước nhỏ nhắn cho khách, răn đe một cách dễ mến với giọng Bắc Hà Nội dẻo mềm luyến láy, nghe nói như ca: “Các bác đừng ham của lớn Hà Nội. Nhỏ như cháu thế mới ngon!” Tự xét mình, tôi chẳng ham “của to” bao giờ, nên cũng tạm yên tâm.

Đêm đầu tiên, gặp người bạn Hà Nội đầu tiên là Văn Thành. Anh là thư ký tòa soạn báo Tia Sáng. Chúng tôi ghé một quán nước bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Hai chàng cùng tuổi Tuất nhâm nhi chai Heneiken bên dĩa đậu phụng. Mới mỗi người một chai mà khí phách nam tử hán đã lâng lâng. Nắng vừa tắt, mặt hồ đã chờn vờn sương khói. Hỏi ý kiến riêng của Văn Thành về những gì mà anh thích nhất khi giới thiệu về Hà Nội, câu trả lời bất ngờ của anh làm tôi ngạc nhiên. Anh nói, điều anh thích nhất là màn sương mù buổi sớm và buổi chiều quanh hồ Hoàn Kiếm. Điều anh thích thứ hai là Hà Nội nhỏ; khi cần, bạn bè hú nhau một tiếng, cỡi xe máy loanh quanh tìm nhau năm mười phút là gặp được nhau liền.

Sau đó, Văn Thành chở tôi đến thăm một tác giả nổi tiếng từ thời tôi còn đang đi học trường làng. Nhưng mấy năm gần đây, tôi có được chút duyên văn nghệ với anh vì cùng viết chung trên báo Tia Sáng. Anh là thi sĩ Lê Đạt. Khi chưa gặp, tôi hình dung nhà thơ Lê Đạt có một dáng người khắc khổ, một cung cách ngang tàng, một ngôn ngữ bạo liệt như thơ của anh. Đến nơi, mở cửa căn lầu thứ ba ngôi nhà riêng khá đồ sộ, tôi gặp một ông cụ chưa già, dáng vẻ phương phi đẹp lão và cười vui dễ dãi, tươi mát như một thiền sư. Đó là nhà thơ Lê Đạt. Cả buổi tối, nói chuyện văn chương, nhắc lại chuyện làm báo đầy sóng gió một thời trong lịch sử văn học cận đại; những hương hoa và gai góc về tình bạn văn nghệ; cuối cùng tôi hỏi anh về một lời khuyên cho thế hệ văn bút đàn em. Anh nói: “Nên chơi với người tử tế!”

Chỉ đơn giản thế thôi sao? Tôi tự hỏi mình và đưa mắt ngầm hỏi người đối diện. Anh quàng vai tôi, cười hề hề và kể rằng, có một một người nữ phóng viên nổi tiếng (mà anh quên tên) gặp Henry Miller phỏng vấn. Miller chỉ trả lời đơn giản: “Cô đã gặp tôi rồi. Cô muốn viết gì thì viết”. Sau đó, đọc lại nội dung bài phỏng vấn, Miller phải kêu là ý nghĩ của cô phóng viên còn hay hơn là điều ông nghĩ được. Tiếc thay, tôi không có tài để “đối diện đàm tâm!” Nhưng sau khi gặp nhà thơ Lê Đạt, chẳng biết vì đâu tôi liên tưởng đến thiền sư Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca (Bài ca của người đã được chứng đạo). Tư tưởng mà tôi cho là nổi bật nhất của Huyền Giác là thổi nâng ý nghĩa sâu thẳm của đờì người bay bổng nhẹ nhàng trong khái niệm về “chơi”: Sống chơi, tu chơi, làm thơ chơi và đến một ngày nào đó: Cũng “chết chơi” luôn! Phải chăng đó cũng là ý nghĩ “chơi với người tử tế” của Lê Đạt?! Thiền sư chứng đạo và thi sĩ thành danh có một điểm đứng và điểm nhìn tương tự là nhìn đời từ chân tâm rỗng lặng. Không dính mắc hay dính mà không mắc mới mong còn được một không gian nội tâm để thiền định và làm thơ.

Chiều hôm sau, anh Văn Thành mời vợ chồng tôi đến quán chả cá Lã Vọng dùng bữa chiều với hai anh Lê Đạt và Nguyên Ngọc. Tuy cùng thế hệ, nhưng trong dòng văn học trải dài theo cuộc chiến dài 30 năm, nhà thơ Lê Đạt nổi tiếng giữa thập niên 50 và nhà văn Nguyên Ngọc (còn có bút danh khác là Nguyễn Trung Thành) nổi tiếng trong những bút ký chiến trường đầy bi tráng giữa thập niên 60.

Trong bữa ăn, nhìn quanh, thấy nhiều khách da trắng chẳng rõ là gốc Tây hay Mỹ, không chấm cuốn gỏi cá vào chén mắm nêm điệu nghệ như dân ta mà húp những chén mắm nêm đã pha ấy với vẻ mặt hân hoan đầy khoái trá. Tôi nắm hai tay mình lại. Mấy anh em đưa mắt dò hỏi. Tôi trả lời: “Cầu cho mắm ruốc đừng dính vào mấy chùm râu rậm rạp của những người bạn dễ thương ấy!” Suốt bữa ăn, các anh nhắc chuyện những tâm hồn ăn uống sành điệu đã đến quán nầy trong những thời điểm quá khác nhau của mảng lịch sử hơn trăm năm sau cùng của Hà Nội. Dĩ nhiên Nguyễn Tuân vẫn đứng đầu sổ về nghệ thuật ăn uống. Khi nói đến các loại thịt cá làm gỏi chả ở Lã Vọng, người thì nói cá anh vũ, người nói cá lăng, cá nheo, cá ngạnh, cá quả… nhưng không ai quyết đoán được loại cá nào là ngon nhất. Anh Lê Đạt kết luận: “Cái này thì phải tìm hỏi Nguyễn Tuân mới được.” Tưởng nói chơi, thế mà năm sau, Lê Đạt đã bươn bả đi tìm Nguyễn Tuân thật, quên mất lời hứa đãi người anh em phương xa tô phở Bát Đàn.

Năm sau, chưa quên lời của nhà thơ Lê Đạt hứa đãi ăn tô phở Bát Đàn cho biết miếng ngon Hà Nội, chúng tôi trở lại nơi nầy. Thực lòng, vợ chồng tôi chưa đủ lãng mạn… bạt mạng kiểu Hollywood để đi từ San Francisco về Hà Nội mất 17 giờ bay mà ăn một tô phở Bát Đàn. Lần nầy, chúng tôi về xem Lễ Phật Đản Vesak là chính, nhưng vẫn nao nức gặp lại các anh Văn Thành, Lê Đạt, Nguyên Ngọc. Khi vừa ra khỏi phi trường Nội Bài thì nghe tin nhà thơ Lê Đạt vừa mất. Chúng tôi lặng người trước cảnh vô thường và chẳng còn muốn gọi ai. Sớm từ giã Hà Nội, chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là đến giờ bay, tôi giục người lái taxi: “Anh cho chúng tôi đến quán phở Bát Đàn càng nhanh càng tốt. Vui lòng đợi cho chúng tôi ăn xong tô phở rồi chở ngay lên phi trường cho kịp giờ.”

Trước quán phở số 49 phố Bát Đàn, sau chuyến xếp hàng mồ hôi nhễ nhại, chúng tôi mới tới được bếp phở lửa nóng rần rật. Khi bưng tô phở Bát Đàn trên tay, mùi thơm lạ lùng mà thân quen bốc khói. Nhưng cảm giác thèm ăn lắng xuống khi nỗi nhớ về một người bạn quý vừa mất dâng lên.

Silverton, Thu 2009
T.K.Đ
(251/01-2010)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN XÊ
                      hồi ký

    Buổi sáng mùa thu ngày 20-9-1940. Nơi nhà thương Nam ở Quy Hòa những bệnh nhân già yếu đang run lên vì gió lạnh từ biển thổi vào.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Tôi đang chuẩn bị cho những trang cuối của số tạp chí này thì được tin từ thành phố Hồ Chí Minh điện ra: Bác Nguyễn Tuân đã mất! Sững sờ và xúc động quá! Tôi như không muốn tin.

  • PHAN NGỌC MINH 

    Từ lâu, tôi mong ước có một chuyến đi xem và vẽ Kinh Thành Huế. Ý tưởng ấy đã thực hiện vào Thu 1995. Lần ấy, được trên mười bức ký họa, những cơn mưa cứ kéo dài, cuối cùng, tôi đành rời Huế trong tâm trạng đầy lưu luyến.

  • TẠ QUANG SUM

    Lần lửa hơn 30 năm tôi mới về lại thăm Thầy. Ngôi nhà số 51 Hồng Bàng vẫn “ Trầm mặc cây rừng ” như ngày xưa lũ học trò chúng tôi có dịp ngang qua. Cầu thang dẫn lên căn gác nhỏ yếu ớt rung lên dưới chân mình, hay….mình run! Tôi chẳng thể nào phân định được, trong phút giây bồi hồi xao xuyến ấy.

  • NGUYỄN THỊ THỐNG

    Tôi tên là Nguyễn Thị Thống - con gái của cố họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung. Tôi rất vui mừng, xúc động và thấy rất may mắn được tới dự buổi lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của bố tôi tại thành phố Huế vừa qua do Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế tổ chức. Tới dự buổi lễ này, tôi được nghe và nhớ lại những kỷ niệm về bố tôi. Những kỷ niệm không bao giờ phai mờ trong ký ức.

  • NAM NGUYÊN

    Thực ra, tôi gọi cuộc đi này là hành hương. Hành hương, nghe có vẻ cao siêu nhưng y phục xứng kỳ đức mà thôi.

  • (Lược thuật Hội thảo “Giá trị văn học Thừa Thiên Huế - những định hướng bảo tồn)

  • TRẦN THỊ KIÊN TRINH Đã không ít lần tôi được nghe những câu chuyện của các anh kể về một thời trai trẻ. Tuổi trẻ hiến dâng, tuổi trẻ xuống đường, tuổi trẻ lên rừng kháng chiến và những đêm không ngủ.

  • THANH HẢI SHO - Hôm ấy, Nha Trang đỏ nắng. Tôi cùng anh bạn nhà báo lần đến số 46 đường Yersin tìm một ông già. Đến nơi, vừa kéo chuông chủ nhà vội vàng mở cổng. Trước mắt tôi là một ông già ngoài 80, dáng người đậm, da trắng,  mang cặp kính cận bự chác mỗi bên độ nửa bàn tay… ông già ấy chính là nhà thơ Giang Nam, tác giả bài thơ “Quê hương” nổi tiếng.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ Giữa năm 1967, anh Thanh Hải và tôi được điều động từ Thành ủy Huế về Ban Tuyên huấn Khu ủy Trị - Thiên - Huế. Mấy ngày đi đường, chúng tôi nói nhiều về vùng đất và con người quê hương.

  • MAI VĂN HOANThời còn là sinh viên khoa Văn trường Đại học Sư phạm Vinh (1967 - 1971), chúng tôi thường gọi thầy Hoàng Ngọc Hiến là thầy Hiến. Đó là cách gọi thân mật của những học sinh vùng quê miền Trung đối với những thầy giáo trường làng. Lên đại học chúng tôi vẫn giữ nguyên thói quen ấy.

  • NGUYỄN QUANG HÀNhững ngày trên chiến khu, báo Cờ giải phóng và báo Cứu lấy quê hương ở chung trong một mái nhà, cùng ăn cùng ở cùng làm.

  • PHẠM THƯỜNG KHANH - PHẠM LINH THÀNHTheo tiếng Latinh, thuật ngữ intelligentia - trí thức chỉ những người có hiểu biết, có tri thức, tầng lớp xã hội này bao gồm những người chuyên lao động trí óc, có trình độ chuyên môn cao.

  • NGUYỄN THANH TUẤN           Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

  • NGÔ MINH Sau ba tháng kêu gọi, hơn 250 văn nghệ sĩ, trí thức và những người Việt mến mộ Phùng Quán ở Việt Nam, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Ba Lan, Úc, Thụy Sĩ v.v, đã nhiệt tình góp cát đá xây lăng mộ nhà thơ Phùng Quán - bà Vũ Bội Trâm ở Thủy Dương, Huế.

  • HỒ THẾ HÀHằng năm, sự kiện hân hoan và sôi động nhất của văn nghệ sĩ Huế là kết quả thẩm định và xét tặng thưởng công trình, tác phẩm VHNT xuất sắc của Liên hiệp Hội.

  • Ngày 11 tháng 10 năm 2010, đoàn Trái tim người lính (Mỹ) do tiến sĩ, bác sĩ tâm lý, nhà văn Edward Tick dẫn đầu đã đến thăm và giao lưu với Hội Nhà văn Việt Nam tại Hà Nội. Đoàn của tổ chức Trái tim người lính có nhiều người là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam, I-Rắc; các bác sĩ, giáo viên, nhà báo, mục sư và cả học sinh trung học. Buổi gặp gỡ đã diễn ra trong tình cảm ấm áp, thông cảm, chia sẻ quá khứ, vì hiện tại và hướng tới tương lai. Chiến tranh và hòa bình được nhắc đến nhiều hơn cả trong các câu chuyện và thơ của cả bạn và ta. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý là người được dự buổi gặp gỡ giao lưu cảm động này, anh đã có bài viết gửi Sông Hương, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. SH

  • LÊ TRỌNG SÂM(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên và có sự giúp đỡ nhiều mặt của Chi hội Văn nghệ Liên khu 4, cuộc gặp mặt lớn của giới văn nghệ sĩ trong tỉnh tại thôn 2 làng Mỹ Lợi trong vùng căn cứ khu 3 huyện Phú Lộc vào tháng 10 năm 1950 phải được tôn vinh như là Đại hội đầu tiên, Đại hội lần thứ nhất của anh chị em văn nghệ tỉnh nhà. Nó là một cái mốc quan trọng mở ra một thời kỳ mới.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Chiến dịch Mậu Thân 1968 đang cần quân để đánh vào thành phố, trước tình hình ấy, chúng tôi được huy động vào quân đội, và sau những tháng tập mang vác nặng, tập leo núi, tập bắn, tập tiến nhập, chúng tôi được điều vào Bác Đô (đó là bí danh Thừa Thiên Huế lúc bấy giờ).

  • VÕ MẠNH LẬPKỷ niệm 30 năm ngày mất nhà thơ Thanh Hải (1980 - 2010)