MURAKAMI HARUKI
Tên tuổi nhà văn Murakami Haruki đã trở nên quen thuộc với độc giả Việt Nam qua nhiều tiểu thuyết và tuyển tập truyện ngắn được dịch ra Việt ngữ. Sau rất nhiều phấn khích và nhận định quá đà, bây giờ bình tâm nhìn nhận lại ta vẫn thấy tầm vóc Murakami Haruki trong sự tinh tế khi viết về nỗi cô đơn và tình yêu tuổi trẻ chứ không phải ở chiều kích tư tưởng. Chính vì vậy mà tác phẩm của ông luôn được yêu thích như là ngấn tích của một thời tuổi trẻ mê say cuồng vọng. Ngay cả trong những truyện cực ngắn, sự cô đơn của thân phận con người cũng được khắc họa rất tự nhiên qua những tình huống bình dị mà ám ảnh. Để giới thiệu một nét đặc sắc khác của văn nghiệp Murakami Haruki qua thể loại truyện cực ngắn, chúng tôi chọn dịch một số truyện cực ngắn tiêu biểu trong tập “Khỉ Nam Mỹ ban đêm”(夜のくもざる) của nhà văn Murakami Haruki (村上春樹), do Nxb. Tân Triều Văn Khố (新潮文庫) tái bản lần thứ sáu năm Bình Thành 26 (2014) với hy vọng phần nào giới thiệu được bút pháp và nghệ thuật kể truyện đặc sắc của Murakami ngay cả trong những truyện cực ngắn vốn đòi hỏi tính hàm súc và khúc chiết cao độ. Hoàng Long giới thiệu và dịch từ nguyên tác Nhật ngữ |
Điều ngạc nhiên ở Bangkok
“Alô, cho hỏi có phải là số 5721-1251 không ạ?”, giọng của một cô gái vang lên.
“Đúng rồi. Số 5721-1251 đây”.
“Thật là xin lỗi khi bất chợt gọi đến cho anh. Thực ra thì tôi đã gọi đến số 5721-1252 đấy”.
“Hả?”, tôi ngạc nhiên.
“Từ sáng đến giờ tôi đã gọi gần ba mươi cuộc điện thoại đấy chứ. Nhưng không có ai bắt máy cả. Có lẽ là người ta đi du lịch rồi cũng nên”.
“Vậy thì sao?”, tôi hỏi thử.
“À, bởi vậy nên tôi mới thử chuyển sang gọi số 5721-1251 xem sao? Giống như cảm giác hàng xóm láng giềng vậy mà”.
“Hả?”
Cô ta cất giọng đằng hắng nhẹ. “Tôi vừa mới từ Bangkok trở về đây. Ở Bangkok xảy ra chuyện quá quá quá sức tưởng tượng luôn. Chuyện quá quá quá sức đến mức không thể nào tin nổi luôn ấy. Bởi vậy mà mặc dù đự định ở chơi một tuần nhưng mới đến ngày thứ ba tôi đã quyết định quay về luôn. Vì thế mà tôi đã gọi số 1252 để định nói chuyện này đấy. Nếu không thể san sẻ chuyện này cho ai được thì tôi chẳng thể nào ngủ yên đâu. Thế là bất chợt tôi nghĩ biết đâu số 1251 có thể nghe câu chuyện của mình chăng mà gọi điện đấy”.
“Thì ra là vậy”.
“Nhưng mà tôi nghĩ biết đâu nếu là phụ nữ bắt máy thì hay biết bao. Vì tôi nghĩ nếu là phụ nữ thì sẽ dễ dàng san sẻ chuyện này hơn mà”.
“Có lẽ là vậy nhỉ”, tôi nói.
“Xin lỗi anh bao nhiêu tuổi vậy?”
“Tôi vừa tròn ba bảy tuổi tháng trước”.
“Chà, ba mươi bảy tuổi à? Tôi cảm thấy là nếu trẻ hơn một chút thì sẽ thích hợp hơn. Xin lỗi anh vì đã hỏi câu này”.
“Không sao, có gì đâu mà”.
“Một lần nữa xin lỗi anh”. “Vậy để tôi gọi sang số 5721-1253 thử xem sao. Chào anh nhé”.
Vì thế mà cho đến phút cuối cùng, tôi cũng chẳng biết là ở Bangkok đã xảy ra chuyện gì nữa.
Những đôi tất dài
Được chưa nào, bây giờ bạn hãy thử tưởng tượng xem sao nhé.
Một căn phòng nhỏ. Nằm trên tầng ba hay tầng bốn của một tòa nhà cao tầng. Từ cửa sổ nhìn ra có thể thấy những tòa nhà khác. Trong phòng không có ai. Và rồi một người đàn ông bước vào. Anh ta khoảng chừng trên hai lăm tuổi, khuôn mặt trắng xanh. Khuôn mặt tuy cũng có thể gọi là đẹp trai nhưng không hiểu sao lại không gây ấn tượng gì lắm. Anh ta có dáng người cao gầy, chừng một mét bảy mươi hai.
Bạn đã tưởng tượng đến đó rồi chứ?
Anh ta đặt chiếc túi xách Boston1 màu đen bằng nhựa vinyl xuống sàn. Rồi khệ nệ mang nó đặt lên cái bàn nằm chính giữa căn phòng. Dường như trong đó có đựng thứ gì rất nặng. Anh ta mở dây khóa kéo và lấy đồ trong túi ra. Đầu tiên là một đôi tất dài màu đen của phụ nữ. Không phải là loại quần tất đâu mà là loại tách rời hai bên chân kiểu ngày xưa ấy. Anh lôi ra tất cả chừng một tá. Nhưng mà dường như anh ta không có chút quan tâm nào đến loại tất dài này nên gần như chẳng thèm nhìn qua cứ thế vứt bừa xuống sàn. Có cả một đôi giày cao gót màu đen nữa nhưng anh ta vứt đi ngay. Rồi anh ta lấy ra một chiếc radio cỡ lớn. Sau khi nhìn thoáng qua anh ta liền đặt nó xuống sàn với vẻ chẳng có hứng thú gì đặc biệt. Nét mặt anh ta dần dần trở nên bất an lo lắng. Rồi anh ta lấy ra năm, sáu gói thuốc lá. Là loại thuốc hi-lite. Anh ta xé bao bì, lấy ra một điếu và châm lửa hút thử. Được chừng hai ba hơi, anh ta lắc đầu rồi lấy chân dậm tắt điếu thuốc.
Đúng lúc đó thì đột nhiên điện thoại reo vang. Ring ring ring ring ring ring. Anh ta nhấc ống nghe lên với vẻ mặt vô cùng cảnh giác. “Alô xin nghe”, anh ta cất giọng khẽ khàng. Sau khi nghe đầu dây bên kia nói gì đó, anh ta trả lời. “Không, nhầm rồi ạ”. “Hoàn toàn không phải vậy đâu ạ. Tôi không nuôi mèo cũng chẳng hút thuốc lá. Và khoảng chừng mười năm nay tôi chưa từng ăn cái bánh quy phô mai nào cả. Đúng vậy. Tôi chẳng có liên quan gì đến tuyến đường tàu Fukuchiyama cả đâu. Hoàn toàn không có chút liên quan nào đâu ạ. Đã rõ chưa nào?”, nói rồi anh ta đàng hoàng cúp máy.
Anh ta lại lấy từ trong cái túi xách Boston đó ra một hộp bánh quy phô mai đã vơi đi một nửa. Và rồi lại đến những đôi tất dài. Lần này anh ta kéo dãn đôi tất ra, giơ cao lên thử xem xét dưới ánh sáng trời. Rồi anh ta lục tìm trong túi quần, lấy ra tất cả mớ tiền xu trút hết vào chiếc bình hoa rỗng không đặt kế bên kêu leng keng. Chiếc tất đã kéo dãn ra anh ta cũng nhét luôn vào trong đó.
Đúng lúc đó, tiếng gõ cửa chợt vang lên. Cốc cốc cốc cốc cốc. Anh ta giấu chiếc bình hoa vào trong góc phòng, khẽ khàng mở cửa. Ngoài cửa một người đàn ông nhỏ thó hói đầu thắt nơ màu đỏ đang đứng chờ. Và đột nhiên gã đó giơ thẳng tờ báo quấn tròn lạnh lùng hướng về phía anh ta, cất giọng đanh thép.
Bây giờ, vấn đề là ở chỗ đó.
Gã đàn ông nhỏ thó hói đầu đã nói câu gì?
Hãy trả lời trong vòng mười lăm giây. Tích tắc tích tắc tích tắc.
M.H
(TCSH428/10-2024)
--------------------
1 Nguyên văn: ボストンバッグ là phiên âm của từ “Boston bag”, túi xách du lịch.
LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.
William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.
LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...
L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.
L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.
LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.
LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.
PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.
An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.
Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.
K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.
LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.
LGT: Irving Stone (1903-1989), nhà văn Mỹ hiện đại, nổi tiếng trong nước và trên thế giới nhờ những kịch bản phim lịch sử, những tác phẩm về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, nhất là những cuốn “Khát vọng cuộc sống” (Lust for Life) viết năm 1934, về Vincent van Gogh, danh hoạ Hà Lan, “Tê tái và Đê mê” (The Agony and the Ecstasy) viết năm 1961, về Michelangelo, danh hoạ và nghệ sĩ điêu khắc Italy, “Thuỷ thủ trên lưng ngựa” (Sailor on Horseback) về Jack London, nhà văn Mỹ lừng danh...).