Chùm truyện cực ngắn của Murakami Haruki

09:14 11/11/2024

MURAKAMI HARUKI

Tên tuổi nhà văn Murakami Haruki đã trở nên quen thuộc với độc giả Việt Nam qua nhiều tiểu thuyết và tuyển tập truyện ngắn được dịch ra Việt ngữ. Sau rất nhiều phấn khích và nhận định quá đà, bây giờ bình tâm nhìn nhận lại ta vẫn thấy tầm vóc Murakami Haruki trong sự tinh tế khi viết về nỗi cô đơn và tình yêu tuổi trẻ chứ không phải ở chiều kích tư tưởng. Chính vì vậy mà tác phẩm của ông luôn được yêu thích như là ngấn tích của một thời tuổi trẻ mê say cuồng vọng. Ngay cả trong những truyện cực ngắn, sự cô đơn của thân phận con người cũng được khắc họa rất tự nhiên qua những tình huống bình dị mà ám ảnh. Để giới thiệu một nét đặc sắc khác của văn nghiệp Murakami Haruki qua thể loại truyện cực ngắn, chúng tôi chọn dịch một số truyện cực ngắn tiêu biểu trong tập “Khỉ Nam Mỹ ban đêm”(夜のくもざる) của nhà văn Murakami Haruki (村上春樹), do Nxb. Tân Triều Văn Khố (新潮文庫) tái bản lần thứ sáu năm Bình Thành 26 (2014) với hy vọng phần nào giới thiệu được bút pháp và nghệ thuật kể truyện đặc sắc của Murakami ngay cả trong những truyện cực ngắn vốn đòi hỏi tính hàm súc và khúc chiết cao độ.

                             Hoàng Long giới thiệu và dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

 

Điều ngạc nhiên ở Bangkok

 

“Alô, cho hỏi có phải là số 5721-1251 không ạ?”, giọng của một cô gái vang lên.

“Đúng rồi. Số 5721-1251 đây”.

“Thật là xin lỗi khi bất chợt gọi đến cho anh. Thực ra thì tôi đã gọi đến số 5721-1252 đấy”.

“Hả?”, tôi ngạc nhiên.

“Từ sáng đến giờ tôi đã gọi gần ba mươi cuộc điện thoại đấy chứ. Nhưng không có ai bắt máy cả. Có lẽ là người ta đi du lịch rồi cũng nên”.

“Vậy thì sao?”, tôi hỏi thử.

“À, bởi vậy nên tôi mới thử chuyển sang gọi số 5721-1251 xem sao? Giống như cảm giác hàng xóm láng giềng vậy mà”.

“Hả?”

Cô ta cất giọng đằng hắng nhẹ. “Tôi vừa mới từ Bangkok trở về đây. Ở Bangkok xảy ra chuyện quá quá quá sức tưởng tượng luôn. Chuyện quá quá quá sức đến mức không thể nào tin nổi luôn ấy. Bởi vậy mà mặc dù đự định ở chơi một tuần nhưng mới đến ngày thứ ba tôi đã quyết định quay về luôn. Vì thế mà tôi đã gọi số 1252 để định nói chuyện này đấy. Nếu không thể san sẻ chuyện này cho ai được thì tôi chẳng thể nào ngủ yên đâu. Thế là bất chợt tôi nghĩ biết đâu số 1251 có thể nghe câu chuyện của mình chăng mà gọi điện đấy”.

“Thì ra là vậy”.

“Nhưng mà tôi nghĩ biết đâu nếu là phụ nữ bắt máy thì hay biết bao. Vì tôi nghĩ nếu là phụ nữ thì sẽ dễ dàng san sẻ chuyện này hơn mà”.

“Có lẽ là vậy nhỉ”, tôi nói.

“Xin lỗi anh bao nhiêu tuổi vậy?”

“Tôi vừa tròn ba bảy tuổi tháng trước”.

“Chà, ba mươi bảy tuổi à? Tôi cảm thấy là nếu trẻ hơn một chút thì sẽ thích hợp hơn. Xin lỗi anh vì đã hỏi câu này”.

“Không sao, có gì đâu mà”.

“Một lần nữa xin lỗi anh”. “Vậy để tôi gọi sang số 5721-1253 thử xem sao. Chào anh nhé”.

Vì thế mà cho đến phút cuối cùng, tôi cũng chẳng biết là ở Bangkok đã xảy ra chuyện gì nữa.

 

 

Những đôi tất dài
 

Được chưa nào, bây giờ bạn hãy thử tưởng tượng xem sao nhé.

Một căn phòng nhỏ. Nằm trên tầng ba hay tầng bốn của một tòa nhà cao tầng. Từ cửa sổ nhìn ra có thể thấy những tòa nhà khác. Trong phòng không có ai. Và rồi một người đàn ông bước vào. Anh ta khoảng chừng trên hai lăm tuổi, khuôn mặt trắng xanh. Khuôn mặt tuy cũng có thể gọi là đẹp trai nhưng không hiểu sao lại không gây ấn tượng gì lắm. Anh ta có dáng người cao gầy, chừng một mét bảy mươi hai.

Bạn đã tưởng tượng đến đó rồi chứ?

Anh ta đặt chiếc túi xách Boston1 màu đen bằng nhựa vinyl xuống sàn. Rồi khệ nệ mang nó đặt lên cái bàn nằm chính giữa căn phòng. Dường như trong đó có đựng thứ gì rất nặng. Anh ta mở dây khóa kéo và lấy đồ trong túi ra. Đầu tiên là một đôi tất dài màu đen của phụ nữ. Không phải là loại quần tất đâu mà là loại tách rời hai bên chân kiểu ngày xưa ấy. Anh lôi ra tất cả chừng một tá. Nhưng mà dường như anh ta không có chút quan tâm nào đến loại tất dài này nên gần như chẳng thèm nhìn qua cứ thế vứt bừa xuống sàn. Có cả một đôi giày cao gót màu đen nữa nhưng anh ta vứt đi ngay. Rồi anh ta lấy ra một chiếc radio cỡ lớn. Sau khi nhìn thoáng qua anh ta liền đặt nó xuống sàn với vẻ chẳng có hứng thú gì đặc biệt. Nét mặt anh ta dần dần trở nên bất an lo lắng. Rồi anh ta lấy ra năm, sáu gói thuốc lá. Là loại thuốc hi-lite. Anh ta xé bao bì, lấy ra một điếu và châm lửa hút thử. Được chừng hai ba hơi, anh ta lắc đầu rồi lấy chân dậm tắt điếu thuốc.

Đúng lúc đó thì đột nhiên điện thoại reo vang. Ring ring ring ring ring ring. Anh ta nhấc ống nghe lên với vẻ mặt vô cùng cảnh giác. “Alô xin nghe”, anh ta cất giọng khẽ khàng. Sau khi nghe đầu dây bên kia nói gì đó, anh ta trả lời. “Không, nhầm rồi ạ”. “Hoàn toàn không phải vậy đâu ạ. Tôi không nuôi mèo cũng chẳng hút thuốc lá. Và khoảng chừng mười năm nay tôi chưa từng ăn cái bánh quy phô mai nào cả. Đúng vậy. Tôi chẳng có liên quan gì đến tuyến đường tàu Fukuchiyama cả đâu. Hoàn toàn không có chút liên quan nào đâu ạ. Đã rõ chưa nào?”, nói rồi anh ta đàng hoàng cúp máy.

Anh ta lại lấy từ trong cái túi xách Boston đó ra một hộp bánh quy phô mai đã vơi đi một nửa. Và rồi lại đến những đôi tất dài. Lần này anh ta kéo dãn đôi tất ra, giơ cao lên thử xem xét dưới ánh sáng trời. Rồi anh ta lục tìm trong túi quần, lấy ra tất cả mớ tiền xu trút hết vào chiếc bình hoa rỗng không đặt kế bên kêu leng keng. Chiếc tất đã kéo dãn ra anh ta cũng nhét luôn vào trong đó.

Đúng lúc đó, tiếng gõ cửa chợt vang lên. Cốc cốc cốc cốc cốc. Anh ta giấu chiếc bình hoa vào trong góc phòng, khẽ khàng mở cửa. Ngoài cửa một người đàn ông nhỏ thó hói đầu thắt nơ màu đỏ đang đứng chờ. Và đột nhiên gã đó giơ thẳng tờ báo quấn tròn lạnh lùng hướng về phía anh ta, cất giọng đanh thép.

Bây giờ, vấn đề là ở chỗ đó.

Gã đàn ông nhỏ thó hói đầu đã nói câu gì?

Hãy trả lời trong vòng mười lăm giây. Tích tắc tích tắc tích tắc.

M.H
(TCSH428/10-2024)

--------------------
1 Nguyên văn: ボストンバッグ là phiên âm của từ “Boston bag”, túi xách du lịch.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.

  • BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.

  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.

  • DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?