Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc

11:00 08/07/2009
FRED MARCHANT (Mỹ)                 Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.

Fred Marchant (Ảnh: hcam.tv)

Tuyết rơi vào cuối tháng ba, những bông tuyết trơn nước kêu xì xì trên lối đi bên đường.
Những cành cây trơ trụi, cúi mình trước cơn gió mạnh thổi từ biển vào.
Trên truyền hình tối qua có chiếu chương trình tưởng nhớ tới đồi Hotel Company, đổ máu trên đồi 881.

Lệnh cho người lính bình nhì phải đi tìm về một người lính thuỷ khác, đang hấp hối, lệnh được tuân theo và rồi hai người cùng chết.
Người cựu thượng sĩ với giọng nói cao vút, khuôn mặt như thầy tu và như sắp chảy nước mắt.
Truyền hình giả dối để ý tới những giọt nước mắt này, người phát thanh viên ngừng lại để người đàn ông trên truyền hình ngăn những giọt nước mắt lại.

Cái gọi là “chúng ta không muốn có mặt ở đó”, mệnh lệnh của đất nước, thằng con trai ở nông trại muốn đi đánh lại những người cộng sản.
Da trên người tôi ngọ ngoạy khó chịu trên chiếc ghế bành êm.
Trong ký ức tôi chợt hiện về những cuộc tranh cãi, đúng hay sai, ai đúng và ai đúng hơn và rồi những ký ức đó lại biến mất, như đoạn phim bị cắt.

Người cựu thượng sĩ báo cáo rằng anh ta bị nhổ vào mặt.
Tôi tự hỏi tôi có tin được anh ta không.
Rồi tôi lại cảm thấy có lẽ mình nhỏ mọn quá khi nghi ngờ anh ta như vậy.

Chúng ta được kể lại rằng, ông ta làm chủ trung tâm bán hoa và cây cảnh lớn nhất ở Los Angeles và một phần của tôi là ở những cái cây đã giúp ông ta tiếp tục bước đi, đã là mơ ước của ông ta để làm lại, nhưng cuộc sống của những chiến binh tử trận không bao giờ trở về nhưng cũng không biết chắc có bị mất tích hay không.
Tất cả cuộc sống xanh tươi đó, cái không khí ấm và ẩm ướt của nhà kính đó, những tưởng nhà làm bằng như trong suốt, và không có máu đổ ở bất cứ nơi đâu cả.
Một bức ảnh chụp từ bậc cấp của một ngôi chùa nơi Thích Quảng Đức rời bỏ để tự thiêu ở Sài Gòn; một chiếc thuyền rồng trôi lơ lửng trên dòng sông Hương.

Một cây chuối đầy đủ Lá gập xuống bên chiếc thuyền một người đàn ông dáng vẻ nghiêm nghị: Đó là hình ảnh về sự tang tóc của tôi.
Một hình ảnh khác: Chính tôi lúc này ở đằng trước con đại bàng, quả địa cầu và cái neo gấp lại(1) của quân đoàn tay phải giơ lên(2) và mắt tôi không để ý đến bất cứ cái gì cả.

Đứng ngay bên cạnh tôi là cha mẹ tôi, mắt họ cũng có vẻ lạ thường và trống vắng.
Đó là vào năm 1968, và chẳng ai trong chúng tôi biết chúng ta đang làm gì cả.

Đó là lý do tại sao bây giờ tôi ghét Hartford(3) là lý do tại sao tôi lái xe vòng vòng quanh thành phố, là tại sao tôi bị lạc giữa xa lộ để dẫn tôi đến chỗ ghi danh đi lính tình nguyện.
Hình ảnh trên truyền hình quay quanh hình ảnh biểu tình chống đối, đánh bằng dùi cui, và một giọng phát thanh viên cất lên nói về cuộc chiến tranh “không được nhiều người ủng hộ” đó.
Những lời nói vang lên từ trường trung học và thời kỳ biết tình dục sớm, tuổi niên thiếu ngột ngạt và thời kỳ chúng tôi lại muốn có sổ lưu bút và chụp hình chung của cả lớp,

Để đếm những bạn vắng mặt, những khuôn mặt chúng ta có thể gạch tên.
Trên tầng hai nhà tôi có một thanh kim loại treo cái đầu lâu và sừng của một con hươu núi ở Việt Nam.
Một thanh kim loại treo một sợi dây đeo cổ có cái mặt là một con mắt màu xanh của đạo Cao Đài.
Trong phòng ăn, phía trên bàn, là một bức sơn mài tả một nhà thơ đang viết. Ông ta đeo kính. Ông sống ở Hà Nội gần chùa Một Cột.

Giá sách của tôi chất đầy sách tôi dùng để dạy về chiến tranh: Những cuốn tiểu thuyết, bài thơ, sách dành cho học giả, và những cuốn sách phân tích về chiến tranh.
Một con rối nước nhìn nửa đàn ông nửa đàn bà rũ xuống ở trong góc.
Tôi mua trái cây và trà để đãi bạn tôi - nhà văn Việt Nam, anh Tô Nhuận Vỹ, và đứa con gái thông minh sáng láng của anh ấy.

Họ đang bước trên tuyết tới bậc thềm rải muối để làm tan tuyết. Tôi muốn hét lên cho họ nghe rằng hãy cẩn thận vì ở đây trơn lắm.
Trái tim tôi biết rằng suốt ba mươi năm qua chúng ta đã học và thay đổi.
Nhưng không, từ trong sâu thẳm, tôi sợ đất nước tôi.

              
Tháng 3 - 1998
    TÔ DIỆU LINH Chuyển ngữ
(179-180/01&02-04)

---------------------------
(1) Con đại bàng, quả địa cầu và cái mỏ neo là biểu tượng của quân Marine, lính thuỷ đánh bộ của Mỹ.
(2) Giơ tay phải lên để thề phục vụ cho đất nước.
(3) Một thành phố của bang Connecticut nơi Fred ghi danh tình nguyện đi lính, ngay sau khi vừa tốt nghiệp đại học.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)

  • Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis

  • Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.

  • Hải Kỳ - Đỗ Hoàng - Nguyễn Khắc Thạch

  • Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp

  • Mắc-xim Tăng-kơ (tên thật là Ép-ghê-ni Skuốc-kô) là nhà thơ của đồng ruộng, đất đai, đường sá, khắp các vùng của lãnh thổ Liên bang Xô-viết và rất nhiều nước khác.

  • XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)

  • Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).

  • Ludmila TatianitchevaTuổi tôi

  • OCTAVIO PAZ        Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt

  • LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.

  • LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)

  • WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)

  • Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.

  • PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP

  • LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.

  • Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.

  • RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865  Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào  chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.

  • ALLEN GINSBERG(Tôn vinh Kenneth Koch) (1)LGT: Allen Ginsberg (1926 - 1997): là một nhà thơ hậu hiện đại Mỹ nổi tiếng trong trào lưu Beat cùng với Jack Kerowack và Williams S. Burroughs. Tốt nghiệp đại học năm 1948, làm đủ thứ nghề: thủy thủ, thợ nhà in, rửa bát, điểm sách, nhân viên tiếp thị.