HOÀNG DIỆP LẠC
Mỗi con người thấy sự vật theo góc nhìn riêng của mình, như trong câu chuyện ngụ ngôn “Những người mù sờ voi”.
Tranh Đinh Cường
Vì vậy sự thấy của mỗi người ở mỗi góc nhìn có khác biệt, đó là sự khác biệt khách quan về vị trí khác nhau của điểm nhìn, còn một điều tạo ra sự khác biệt giữa các đối tượng chiêm ngắm sự vật, chính là sự cảm nhận qua tri thức và đời sống văn hóa của người xem cũng như sự từng trải trong cuộc sống. Chúng ta đều biết, nhìn và nghe là biểu hiện của sự thu nhận hình ảnh và âm thanh được giải mã qua cảm quan văn hóa và tri thức của mỗi người. Đối với nghệ thuật lại phức tạp hơn nữa, vì đối tượng của nghệ thuật bao hàm cả xã hội thuộc ba thời quá khứ hiện tại và tương lai. Những nghệ sĩ vượt thời gian như Trịnh Công Sơn thì tác phẩm của họ không thuộc một không gian nhất định nào. Trịnh Công Sơn viết về tình yêu và thân phận cho tất cả mọi người trên toàn cầu và ông viết về chiến tranh cho cả tương lai loài người. Với tôn giáo cũng vậy, người nghệ sĩ có thể thuộc tín ngưỡng này, tín ngưỡng kia, nhưng tác phẩm của họ là hướng đến cho mọi người bất kể tôn giáo nào. Có chăng, là âm hưởng của tôn giáo ẩn hiện trong các tác phẩm của người sáng tạo. Trịnh Công Sơn đã từng nói nhiều lần trên phương tiện thông tin đại chúng với đại ý: Chúng ta từ hư vô mà đến với thế giới này và khi chết đi thì sẽ trở về với hư vô. Vì vậy, âm nhạc và ca từ của ông đều man mác một nỗi hoài niệm về thế giới phía sau sự sống. Nhiều người đã viết về Phật giáo trong nhạc Trịnh Công Sơn; tu sĩ Nhất Hạnh cũng đã sử dụng nhạc Trịnh Công Sơn trong những bài thuyết giảng của ông.
Tôn giáo không bao giờ đồng hành với cái ác mà luôn hướng thiện và góp phần cho xã hội tốt đẹp hơn. Ở thế giới này, xã hội châu Âu được đặt nền tảng trên lý thuyết Ky tô giáo, điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác của các văn nghệ sĩ ở châu Âu qua các thời kỳ. Với người nghệ sĩ thực thụ thì phải vượt trên mọi quan niệm văn hóa, chính trị, tôn giáo,... để hóa thân vào mọi ngõ ngách cuộc sống này đến với tất cả mọi người. Vì thế, với Trịnh Công Sơn, mặc dù ở trên đất nước mà dấu ấn của Phật giáo, của văn hóa tín ngưỡng thần quyền đã ăn sâu vào tâm thức của đa số mọi người, thì tác phẩm của ông không thể thiếu những âm hưởng này. Nhưng, mặt khác trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn, những mặc khải, những ngụ ngôn và cả hình ảnh hay ca từ cũng mang âm hao của Ky tô giáo. Như trong các tác phẩm “Phúc âm buồn”, “Dấu chân địa đàng” hay những câu “Chiều chúa nhật buồn/ nằm trong căn gác đìu hiu/ Tôi xin em năm ngón tay thiên thần/ Trong vùng ăn năn, qua cơn hờn dỗi” trong bài “Lời buồn Thánh”. Trong bài “Cát bụi” hay trong “Đóa hoa vô thường” có câu “Tìm trong vô thường có đôi dòng kinh, sấm bay rền vang”. Trong bài “Đợi có một ngày” nhạc sĩ đã viết: “Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá/ Đợi xóa sân si dưới bóng bồ đề”.
Tôi được nghe thầy giáo Trương Văn Thanh, một người bạn thân của Trịnh Công Sơn (trong ban nhạc Sơn Thanh Hải) kể về sự ra đời của nhạc phẩm “Cát bụi”. Ngoài tản văn mà Trịnh Công Sơn đã viết “Sự ra đời của nhạc phẩm Cát bụi” là do nhạc sĩ đã xem bộ phim “Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm”, và sau khi đọc cuốn “Zorba le Grec”, đến đoạn Zorba than thở: “Chim đa đa ơi thôi đừng hót nữa, tiếng hót mày làm tan nát tim ta”, còn có một nguyên do xuất phát nguồn gốc từ “lễ Tro” ăn sâu vào tâm hồn Trịnh Công Sơn và truyền cảm hứng sáng tác cho bản nhạc này. Nhà văn, dịch giả Bửu Ý, một người bạn thân, rất hiểu Trịnh Công Sơn nhận xét: “...có khi dòng nhạc Trịnh Công Sơn gần gũi với thánh ca thanh thoát...”. Nhà văn Đặng Tiến có nhận định: “...Thời điểm đó, lời nhạc Trịnh Công Sơn mang từ vựng Thiên chúa giáo nhiều hơn từ vựng Phật giáo: như giáo đường, lời buồn thánh, vùng ăn năn, cát bụi, địa đàng... Nhưng đây là chữ nghĩa văn chương nhiều hơn là rung cảm tôn giáo...”. Trong bài “Dã Tràng Ca - Phát hiện lần đầu được công bố” của tác giả Nguyễn Đắc Xuân có đoạn: “... cũng trong thời gian này, Trịnh Công Sơn hay tìm cách giải buồn bằng cách chơi các loại dân ca, thánh ca, các bài nhạc theo điệu Blue của người da đen ở châu Mỹ như bài Sometimes, bài Ave Maria. Phong cách các bài nhạc này có ảnh hưởng không nhỏ đối với sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn sau này”. Nhạc sĩ Văn Bình cho rằng: “Dã Tràng ca là kho lưu trữ những ưu tư mà ta thường bắt gặp lại trong nhiều ca khúc của Trịnh Công Sơn sau này ví như Lời buồn thánh, Đóa hoa vô thường”. Và điều kỳ lạ là người gắn kết với sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn, ca sĩ Khánh Ly như một sự sắp đặt của trời đất, lại là người có đức tin vào Thiên Chúa. Chữ “buồn” trong nhan đề bản nhạc “Phúc âm buồn” là do chính ca sĩ Khánh Ly đã thêm vào. Vì phúc âm mang ý nghĩa tin mừng, nhưng giai điệu và ca từ trong bài đó quá buồn, nên Khánh Ly đã rất có lý khi thêm chữ “buồn” vào trong nhan đề nhạc phẩm. Không chỉ là ca từ mà chính trong giai điệu nhạc của Trịnh Công Sơn đã hàm chứa những “dòng kinh” cứ lãng đãng, du dương, ẩn hiện khi vút cao khi trầm lắng.
Cũng không ngạc nhiên gì, khi nhạc Trịnh Công Sơn mang âm hưởng của phúc âm trong Kinh Thánh, vì căn nhà mà nhạc sĩ đã từng sống, sáng tác và có nhiều kỷ niệm nhất, bây giờ được mang tên Gác Trịnh, chính là dãy nhà trước đây thuộc tòa Tổng giám mục; căn nhà đó đối diện tòa Tổng giám mục và cách nhà thờ Phủ Cam một dòng sông nhỏ, phía bên kia sông có hình bóng của Dao Ánh, Bích Diễm của thời xuân xanh đã đi vào trong tác phẩm của nhạc sĩ.
Trong một khoảng thời gian dài đắm hồn trong trầm tưởng về sự thật của trần gian, tôi chợt nhật ra rằng, mọi thứ ở mặt đất này rồi sẽ tan biến theo quy luật của nó, nhưng cái gì đã là kinh thì không thể mất đi ở thế gian này như: Kinh Thánh, Kinh Coran, Kinh Vệ Đà, Kinh Phật, Đạo Đức Kinh,... và hầu hết những tác phẩm âm nhạc của Trịnh Công Sơn, như nhiều thế hệ đã nhận định, đó là một loại kinh tình yêu, mà tình yêu thì luôn luôn trường tồn, là điều mà vạn vật hướng đến.
Những ngày buồn tháng 3/2014
H.D.L
(SH302/04-14)
NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.
VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.
MẶC HY Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."
MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.
NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.
MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.
NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.
NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.
VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.
PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.
LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.
Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.
DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...
NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.
NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...
NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006
HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!
NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).