“Một mùa đông ở Stockholm” của Agneta Pleijel: một tiểu thuyết độc đáo và đặc sắc

10:35 22/09/2008
BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

Và có khoảng vài chục tiêu đề tiếng Anh như vậy..., điều đó làm tăng cảm giác chuộng mới lạ nơi người đọc, mà thoạt đầu khi lướt dọc các trang sách trong tiểu thuyết, ta có ấn tượng cuốn sách như là một thứ phiếm luận đề cập mọi thứ một cách ngẫu nhiên.
Một thế giới nghệ thuật sống động bí ẩn bất ngờ
Nhưng đọc một vài trang, ta không thể dứt ra được, chữ nghĩa của cuốn sách dần dần biến thành một thế giới sống động, đầy bí ẩn và bất ngờ của một tâm hồn, một số phận phụ nữ sống khắc khoải giữa cô đơn và sự tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống, sự tự chiêm nghiệm và đúc rút một bản lĩnh sống tự chủ, trong một thế giới mà vai trò của “chủ nghĩa nữ quyền” đang khẳng định giữa sự biến động của những năm cuối thế kỷ XX với tấn thảm kịch Sarajero (thuộc Nam Tư cũ) giữa lòng Châu Âu.

Tấn bi kịch riêng tư bi thiết
Nhưng trên hết, điều gây ấn tượng mạnh đối với ta là tấn kịch riêng tư bi thiết của một nhân vật - thiếu phụ trí thức, một giáo sư Đại học vừa là một nhà văn, về tình yêu và hôn nhân giữa đam mê và tỉnh táo, giữa ảo tưởng  và vỡ mộng, giữa chịu đựng và nổi loạn, giữa vị kỷ và hướng thiện, lồng vào bi kịch của một tuổi thơ với những vết thương tâm hồn do sự khác biệt, xung đột và chia ly giữa cha và mẹ, những con người có đam mê và tài năng, ước vọng, nhưng không thể đem hạnh phúc cho nhau, không thể hiểu nhau. Ở đó, còn xuất hiện tấn bi kịch trong quan hệ giữa nam và nữ, giữa những người đàn ông trí thức có tài, những Don Juan đáng yêu, tự phụ, bắt cá nhiều tay trong tình yêu một cách ngây thơ và một tâm hồn phụ nữ nhạy cảm, có một bản lĩnh sống thẳng thắn, chấp nhận cả đổ vỡ, thua thiệt để bảo vệ một chút độc lập kiêu hãnh chua chát phẩm giá nữ giới.

Tấn kịch đời tư của một cá nhân trong khoảnh khắc ấy lại là chứa đựng những tia chớp của sự thật vĩnh cửu của con người trong tấn kịch của giới nữ, như I.Lotmann đã từng nói, khi đề cập đến tiểu thuyết của Anna Karenina của Léon Tolstois.
Sự huyền nhiệm của một cách viết độc đáo, cách tân
Tiểu thuyết có sức cuốn hút đặc biệt, phải chăng ở đây có một sự bí ẩn huyền nhiệm của một cách viết, một cách kể độc đáo và cách tân?
Cách viết phân mảnh đầy chất thơ ngẫu hứng
Nếu truy tìm sâu xa sự bí ẩn đó, dần dà ta sẽ nhận ra đó là một cách viết “phân mảnh” đầy chất thơ và ngẫu hứng, phóng túng sống động mà quyến rũ, một cách kể duyên dáng đầy cuốn hút bởi sự bất ngờ thú vị.

Đó là một lối viết vừa tựa như “nhật ký” vừa tự như “tự thuật”, lắp ghép những mảnh cuộc sống, những mảnh tâm trạng, những lớp thời gian đồng hiện lộn xộn trong liên tưởng, những cảm xúc và ấn tượng vụt hiện bất ngờ và mạnh mẽ, những chiêm nghiệm đôi khi thật sâu sắc. Tất cả những sự lắp ghép ấy xoay quanh một tâm hồn phụ nữ, vừa là người kể chuyện, vừa là nhân vật chính, thể hiện kiểu người tự bộc lộ những sâu kín ở tận đáy lòng mình, ở tận sâu thẳm cuộc đời mình, vừa là một kiểu người chiêm nghiệm ý thức và tự ý thức, phản tư những chặng đời mình đã sống.
Tâm điểm của tiểu thuyết là một không - thời gian sống đặc biệt trong đời, một mùa đông khắc nghiệt và gian nan ở Stockholm, nơi nhân vật người thiếu phụ vừa chia tay một cách đau đớn với Jacob, người chồng mà chị rất yêu và một không thời gian hạnh phúc bình yên bất chợt khi nữ nhân vật gặp Em người tình nhân đến từ đất nước Nam Tư cũ, từ thảm kịch chiến tranh sắc tộc ở Sarajero, một người tình mà chị đã có một cuộc phiêu lưu tình ái tình cờ ngắn ngủi qua đêm mười một năm trước như là một sự ngẫu nhiên của số phận hay là sự tất yếu đã chuẩn bị từ một định mệnh, một lời tiên tri của giáo sư Falkhom ở công viên Parque Retiro.

Một câu chuyện tình đan kết với hàng chục câu chuyện, hàng trăm mạch truyện
Điều đặc sắc ở “Một mùa đông ở Stockholm” là tác giả lấy một câu chuyện tình làm tâm điểm để từ đó làm lan tỏa hàng trăm câu chuyện nhỏ qua các lớp thời gian gắn với một đời người thoạt hiện lên trong liên tưởng một cách bất chợt, ngẫu phát. Điều đó tạo một thứ nghệ thuật kết cấu móc xích tài tình nối mạch truyện chính về tình yêu với các mạch truyện phụ về cuộc đời người cha, cuộc đời người mẹ, bi kịch đổ vỡ hôn nhân, các hồi ức, các chuyến đi tạo nên hàng trăm mạch truyện li ti khác thể hiện qua các chủ điểm mà các tiêu đề dày đặc đã gợi lên.
Một cách nhìn, cách nghĩ mang giới tính nữ
Nhưng hấp lực sâu xa của tiểu thuyết đến từ một cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ “mang giới tính nữ” về thế giới và về bản thân mỗi con người. Một lăng kính vừa đượm màu sắc độc đáo của một cá tính đầy mạnh mẽ lại vừa yếu đuối, vừa mang nét cảm tính, vừa lại có chiều sâu suy tư của giới nữ đặc biệt về người đàn bà với biểu tượng “vết rách, vết rách sâu hoắm rạch ngang qua địa lý người đàn bà như một hẽm núi sâu từ thế kỷ này đến thế kỷ khác” (trang 54), về người đàn ông “Cuộc chạy trốn của đàn ông khỏi đàn bà, chạy từ người đàn bà này đến người đàn bà khác, chạy đi chạy lại giữa những người đàn bà” (trang 53), về người cha, người mẹ, con cái...

Các leitmotiv trở đi trở lại tạo nên tính chỉnh thể
Tiểu thuyết có cách viết “phân mảnh” đầy ngẫu hứng và chất thơ nhưng vẫn dính kết trong một chỉnh thể cấu trúc mang nhạc tính bởi sự sử dụng những “leitmotiv” trở đi trở lại qua 3 phần của tiểu thuyết đan bện các câu chuyện chính, câu chuyện phụ thứ nhất, thứ hai, thứ ba... tạo thành một chỉnh thể thống nhất óng ánh những niềm đau, những hạnh phúc...
Và cách viết này thoạt đầu làm cho tiểu thuyết vỡ vụn ra hàng trăm chủ điểm một cách ngẫu phát như quan niệm của người viết. “Viết: giữ lại một vỉa khoảnh khắc, dấu vết của chúng, trước khi ánh sáng làm tắt ánh sáng. Đi tìm những mối liên hệ mà có lẽ chúng không tồn tại... cái khó nhất là tránh sa vào những dự định” (trang 13) nhưng chính ở đây, nhờ sự nối kết ngầm như thế, lối viết này tạo nên sự đặc sắc và độc đáo của cách trần thuật.

Cách viết phân mảnh, ngẫu hứng đan bện với các leitmofif trở đi trở lại (các hình ảnh, các câu nói, các không gian...) lại lồng vào cách viết nữ tính (écriture féminine), chính ở đây tạo nên lực hấp dẫn.
Sự đa dạng của các cái tôi kể trong các lớp thời gian
Cấu trúc trần thuật ở đây là cấu trúc của cái tôi kể trong các lớp thời gian. Đó là nhiều “cái tôi” trong một “cái tôi” theo dòng chảy cuộc sống, có cả cái tôi “tiềm thức và vô thức”, thể hiện qua các giấc mơ, các ám ảnh cũng trở đi trở lại trong tiểu thuyết.
Cấu trúc các tầng bậc trần thuật gắn với cấu trúc các lớp thời gian nghệ thuật đan xen giữa hiện tại và các lớp quá khứ, giữa ba giấc mơ và hình tượng tiên tri giáo sư “Falkhom” về các mối tình. Sự đi về lại giữa hiện tại và các lớp quá khứ hồi tưởng bất chợt, giữa các giấc mơ, lời tiên tri, các biểu tượng tạo nên một nghệ thuật trần thuật đặc sắc.

Một mối tình liên và xuyên văn hoá
Các lời thoại chấm phá bằng tiếng Anh cũng tạo nên một nét nhấn của mối tình “liên và xuyên văn hóa”, đan kết giữa thế giới bình yên và thế giới chiến tranh, giữa đàn ông và đàn bà, giữa con người dân tộc này và dân tộc khác, tạo ra một nét lạ hóa và giọng điệu đối thoại đặc sắc.
Một tiểu thuyết có đóng góp cho nền tiểu thuyết nữ thế giới
 “Một mùa đông ở Stockholm” là một tiểu thuyết hay, có giá trị, đặc biệt về cách viết, về nghệ thuật trần thuật có tính cách tân, mới lạ. Theo tôi, đây là một trong những tiểu thuyết có đóng góp vào nền văn học Thụy Điển, cũng như nền tiểu thuyết “nữ” thế giới.
B.N

(nguồn: TCSH số 226 - 12 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.