VÕ TRIỀU SƠN
Hải môn ca là bài thơ lục bát bằng chữ Nôm, khuyết danh, phiên trích trong sách “Thông quốc duyên cách hải chữ”, bản chép tay của Viện Khảo cổ Sài Gòn (số ký hiệu VĐ4, tờ 37a-39a).
Khung cảnh cửa Tư Dung
Bài thơ bao gồm 48 câu, mô tả lại hành trình của các lái buôn ghe bầu từ Bố Chính đến Cao Miên, tức Đàng Trong, là phần đất của chúa Nguyễn. Trong đó chỉ ghi nhận các cửa biển từ châu Bố Chính (Quảng Bình nay) cho đến trấn Biên Hòa (vùng ven biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay). Năm 1964, GS. Bửu Cầm có dịch và chú thích bài Hải môn ca in trên Văn hóa nguyệt san (bộ mới), tập XIII, quyển 9 (tháng 9/1964) do Nha Văn hóa - Bộ Quốc gia Giáo dục (Sài Gòn) xuất bản. Năm 1972, trong Văn học Nam Hà (Nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn), Nguyễn Văn Sâm có ghi lại bài này cùng với các chú thích của Bửu Cầm. Năm 1974, cuốn sách này được tái bản.
Theo các nhà nghiên cứu, trong bài thơ này có nhiều chỗ chép nhầm về địa danh hoặc sai cả luật lục bát. Tuy nhiên, đây vẫn là tài liệu có giá trị về lịch sử, địa lý, văn hóa, nhất là trong việc cung cấp các địa danh lịch sử, địa danh dân gian. Nó có nét gần gũi như các bài Vè Các lái, đặc biệt là Vè Lái vô của dân ghe bầu miền Trung vào khoảng thế kỷ XVI đến năm 1945. Qua bài thơ, có thể thấy được sự giao thương kinh tế giữa các vùng miền ngày xưa khá nhộn nhịp, tấp nập, thậm chí các thương lái Việt Nam còn buôn bán sang tận xứ Cao Miên.
Bài thơ bắt đầu nhắc đến địa danh sông Gianh và cửa biển Thuận Cô, Nhật Lệ: “La Hà xuống ngọn sông Gianh/ Phỏng bán nhật trình vượt đến Thuận Cô… Một thôi đến Nhật Lệ môn”. Sông Gianh là con sông lớn nhất Quảng Bình từ 1672 là ranh giới Đàng Trong, Đàng Ngoài. Nhật Lệ ngày xưa là cửa biển lớn, nhà Nguyễn cho chôn cọc và giăng lưới sắt để phòng quân Trịnh đánh xuống phía Nam.
Rồi đến Quảng Trị, bài thơ nhắc đến cửa Minh Linh là cửa Tùng, cửa sông Bến Hải, ranh giới vĩ tuyến 17 (Minh Linh cửa ấy sắt chôn làm hàn); rồi đã nhắc đến cửa Việt: “Một ngày trải khắp giang san/ Đến miền cửa Việt sắt hàn hiểm sao”. Cửa Việt nguyên là An Việt hải môn, được đổi tên là Việt An từ năm Minh Mạng thứ nhất (1820). Đây là cửa sông Thạch Hãn. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, cửa Việt được “hàn sắt” (giăng dây sắt) để phòng thủ.
Đến Thừa Thiên Huế, bài thơ nhắc đến những cửa biển nổi tiếng:
“Một ngày lại đến cửa Eo
Cửa Hàn ngăn sắt sóng reo đầy rầy
Đến Tư Khách cũng một ngày
Một cảnh vượt thủy ngày này Cảnh Dương…”
Cửa Eo tức là cửa Yêu, tên định danh từ thời Lê. Cửa này còn có các tên khác là Hải Nhuyễn, Hải Noãn, cửa Yêu, cửa Eo; đến năm Gia Long thứ 13 (1814) mới được đổi tên là Thuận An (thuộc Phú Vang ngày nay).
Cửa Tư Khách tức là cửa Tư Hiền (huyện Phú Lộc), dân gian thường gọi là cửa Mù U, cửa Bạc Thái, cửa Biện, cửa Ong. Cửa biển này thời Lý có tên là Ô Long; đời Trần Anh Tông có tên là Tư Dung. Tư Khách là tên có từ thời Mạc (do kỵ húy tên Mạc Đăng Dung), năm 1841 (năm Thiệu Trị thứ nhất) mới được đổi tên là Tư Hiền.
![]() |
Đà Nẵng Hải Khẩu (cửa Hàn) trên Cửu Đỉnh |
Cứ thế, qua Đà Nẵng thì “Đà Nẵng cửa đặt tuần ty”, là nhắc đến chuyện các đời Gia Long, Minh Mạng, Đà Nẵng được làm bố phòng, xây cất kiên cố. Năm Minh Mạng thứ 17, cửa biển này được vua cho khắc trên Cửu Đỉnh.
Rồi qua “Đại Chiêm cửa ấy phỏng đi một ngày”, là nhắc đến cửa Đại ở Hội An ngày nay. Ngay từ thế kỷ 16, chúa Nguyễn đã buôn bán với nước ngoài qua cửa biển này.
Xuống Quảng Nam là “Hiệp Hòa bên nọ, này đây An Hòa”, là nhắc đến Hòa Hiệp hải khẩu, nơi hai con sông Tam Kỳ và Trường Giang đổ ra biển.
Quảng Ngãi có nhiều cửa được nhắc đến: Châu Ô (Thái Cần hải khẩu); Sa Trạm (Sa Kỳ) là một trong mười danh thắng tiêu biểu; Tiểu Hải; Đại Nham (Đại hải khẩu), còn gọi là cửa Đại Cổ Lũy, cửa Đại, nơi hai con sông Trà Khúc và sông Vệ đổ về, nơi đây có thôn Cổ Lũy nổi tiếng, gọi là danh thắng Cổ Lũy Cô thôn, xưa có đồn phòng thủ kiên cố của người Chăm; Mộ Hoa (thuộc Mộ Đức); Mỹ Á (Mỹ Ý), xưa gọi là Ma Ác môn; Bồng Sơn; Sa Huỳnh, nơi có đồng muối và di chỉ văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng; Kim Bồng.
Qua Bình Định, bài thơ nhắc đến các địa danh: Thời Phú; Nước Ngọt; Nước Mặn, là thương cảng buôn bán rất sầm uất với nhiều nước phương Tây từ thế kỷ 17.
Qua Phú Yên có: Cù Mông là một trong 6 cửa biển được nhà Nguyễn đặt tại Phú Yên. Cửa này sát đầm Cù Mông còn gọi là vũng Mồi, nổi tiếng nuôi trồng thủy sản; Xuân Đài (Tuy An); Mây Nước (Tuy Hòa); Đà Nông (cửa sông Bàn Thạch).
Qua Khánh Hòa có Nha Lỗ (Nha Phu, Nha Du…); Nha Trang (cửa Lớn) nổi tiếng cảnh đẹp; Tiểu Nha Trang (cửa Bé) nổi danh nước mắm ngon; Cam Ranh (Cam Linh, Cam Lân, Cam Hồ…) thời Nguyễn đã thiết lập tấn Cam Ranh đồn thủ, là một trong 3 cảng thiên nhiên tốt nhất trên thế giới.
Qua Phan Rang có cửa Man Rang, cửa biển thuộc Ninh Thuận, người Chăm gọi là Krong Pong hay Krong Pinh.
Đến Bình Thuận có cửa Man Rí (thuộc thị trấn Phan Rí Cửa), nước sông Lũy đổ ra; Phố Hải (thành phố Phan Thiết); cửa Cạn - Thiển Môn hải khẩu; Ma Ly (Hàm Thuận Nam).
Về Biên Hòa có Xích Lam, nhận nước từ sông Ray, sông dài nhất tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là đầu cầu tiếp nhận vũ khí từ những chuyến tàu không số khi ta mở đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ.
Cửa nhắc đến cuối cùng là cửa Lộn, tức Nước Lộn hải môn, thuộc xứ Đồng Nai.
Bài thơ Nôm chân chất của người xưa, không diễm từ nhuyễn chữ nhưng từ cái dung dị đó, lòng yêu đất nước, biển đảo quê hương hiện lên, nồng nàn, sâu lắng vô cùng.
V.T.S
(SHSDB22/09-2016)
(SHO). Nhiều ngày qua, báo chí và cộng đồng dân cư mạng đã bày tỏ lòng kính yêu Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua những tin tức, đề xuất về việc lựa chọn đường đặt tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp
(SHO). Bộ VHTTDL đã có công văn gửi UBND các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước về việc phối hợp hoàn thiện hồ sơ di tích quốc gia đặc biệt Hệ thống di tích đường Hồ Chí Minh.
NGUYỄN VĂN DẬT
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày.
(Đỗ Trung Quân)
KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP CẢNG CHÂN MÂY
NGUYỄN HỮU THỌ
(Chủ tịch, Giám đốc Công ty TNHH Một Thành Viên Cảng Chân Mây)
LÊ XUÂN THÔNG
Vai trò của nhà Nguyễn với Phật giáo Ngũ Hành Sơn
Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) vốn đã là một trung tâm Phật giáo của Việt Nam thời chúa Nguyễn, nơi hình thành sớm các đạo tràng với sự tu chứng của các bậc danh sư, và đặc biệt nhận được sự quan tâm hỗ trợ của triều đình.
PHAN THUẬN AN
Một sự tình cờ đã xảy ra trong lịch sử cận đại Việt Nam: có hai tướng Ngô Văn Sở sống cùng một thời kỳ. Xin tạm gọi nhân vật thứ nhất là tướng Ngô Văn Sở ấy, và nhân vật thứ hai là danh tướng Ngô Văn Sở triều Tây Sơn.
NGUYỄN NHÃ TIÊN
Tùy bút
Đi trong tiết trời ngập tràn gió lạnh mùa xuân Côn Sơn, con đường hun hút xuyên giữa cánh rừng thông thoảng nhẹ từng làn mây khói mỏng mảnh bay lượn lờ, như dẫn dắt con người vào một thế giới xa xăm thanh vắng.
NGUYỄN VĂN QUẢNG - ĐÀO LÝ
Thành Hóa Châu là một tòa thành có vai trò rất lớn trong lịch sử, chính vì thế nó đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ rất sớm của các sử gia.
NHỤY NGUYÊN
Làng cổ Phước Tích quyến rũ với phong cảnh nhà vườn xanh mát. Cây thị gần ngàn năm tuổi tỏa bóng bên ngôi miếu cổ là một phần hồn vía của làng cùng nhiều mẩu chuyện thú vị về những di chỉ Chăm.
MẠNH TIẾN
Rời Mèo Vạc về Đồng Văn, ngồi sau lưng anh xe ôm người Hmông, tôi vượt Mã Pì Lèng trong một sáng mùa hè mưa rả rích. Cung đường núi hiểm trở, liên tục gấp ngược khủy tay. Cheo leo. Một bên thăm thẳm đá, cao vun vút. Một bên hun hút sâu, những thung lũng.
NGUYỄN VĂN DẬT
Theo gia phả của thợ đúc xứ Đàng Trong để lại thì từ thời Lê Trịnh mà thợ đúc xứ Kinh Bắc ra đi theo Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa lập nghiệp vì nhiều lý do mà trong gia phả nguyên bản bằng chữ Hán được soạn từ thời Cảnh Hưng (1740-1786), rồi tục soạn các đời tiếp Gia Long, Tự Đức đã ghi như sau:
LÊ TRÍ DŨNG
Tôi vẫn phải thưa với bạn đọc rằng suy nghĩ dọc đường thì bao giờ cũng trục trà trục trặc, lục cà lục cục, lủng cà lủng củng và nó cũng gập ghềnh theo nhịp bánh xe lăn, nhất là lúc qua ổ trâu, ổ gà...
NGUYỄN QUANG HÀ - NGUYỄN VĂN DŨNG
Muốn nhìn bức tranh thiên nhiên dựng khung cảnh hoành tráng của Bạch Mã, phải lùi đủ độ xa mới thật chiêm ngưỡng hết dáng vẻ uy nghi của nó.
NGUYỄN QUANG LẬP
Thế rồi Ăm Hươn chống gối đứng dậy, lảo đảo tiến về vách trái nhà sàn đan dày bằng tre ca lay. Nơi đó có cái ca dóc như một búp măng ám khói, đang treo rủ ngược xuống, Ăm Hươn tiến tới gần, dướn lên, với tay lấy ca dóc nhưng không được. Lại dướn lên.. lại không được.
NHẤT LÂM
Trời đã sang thu, ngồi bên sông Héc Gieng chảy qua thị trấn Na Rì lộng gió mà uống rượu về đêm thì thật quá thú. Khúc sông này hẹp, bãi cát vàng hun dưới trăng, và bên kia sông là dãy núi trùng điệp chạy mãi tận Cao Bằng.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Các dân tộc thiểu số anh em sống nép mình bên những dãy Trường Sơn hùng vĩ ở Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, có rất nhiều nét văn hóa độc đáo và riêng biệt. Trong đó có nét đẹp của nghệ thuật làm đẹp mà những chủ nhân của nó hiện ít nhiều còn giữ lại hoặc hồi tưởng qua kí ức.
LÊ QUANG THÁI
Chi thứ 5 trong 12 chi là THÌN, tượng cho con Rồng, chữ Hán viết LONG (龍), còn đọc là “thần”, có nghĩa lý như chữ “Thần” (宸), dị âm đồng nghĩa. Chữ này còn có nghĩa là cung vua. Cung điện sơn màu đỏ là vì thế.
VŨ TRƯỜNG AN
Xưa nay, biểu tượng rồng thường được ứng với những bậc thiên tử, còn những người dân bình thường, chỉ có thể ví với thảo cỏ hay là hàng tôm tép, con bống, con cò..., ví mình với rồng dễ phạm tội “khi quân”.
PHẠM XUÂN PHỤNG (Ghi chép)
Ngày 02 tháng 5 năm 2011, Ban tổ chức Trại sáng tác văn học Quy Nhơn (do hai tạp chí Văn nghệ Quân đội và Sông Hương đồng tổ chức dưới sự tài trợ của Binh đoàn 15) đã tổ chức một chuyến đi thực tế tại Đức Cơ-Gia Lai, nơi có 3 công ty lớn của Binh đoàn đang làm ăn tại đó. Nhân tiện, tôi rẽ ngang vào Plei-Ku, nơi có 3 người đồng nghiệp cũng là học trò của tôi.
NGÔ MINH Kỷ niệm 50 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2011)