“Hải Môn Ca” - bài thơ chữ Nôm về các cửa biển xứ Đàng Trong

09:35 25/11/2016

VÕ TRIỀU SƠN

Hải môn ca là bài thơ lục bát bằng chữ Nôm, khuyết danh, phiên trích trong sách “Thông quốc duyên cách hải chữ”, bản chép tay của Viện Khảo cổ Sài Gòn (số ký hiệu VĐ4, tờ 37a-39a).

Khung cảnh cửa Tư Dung

Bài thơ bao gồm 48 câu, mô tả lại hành trình của các lái buôn ghe bầu từ Bố Chính đến Cao Miên, tức Đàng Trong, là phần đất của chúa Nguyễn. Trong đó chỉ ghi nhận các cửa biển từ châu Bố Chính (Quảng Bình nay) cho đến trấn Biên Hòa (vùng ven biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay). Năm 1964, GS. Bửu Cầm có dịch và chú thích bài Hải môn ca in trên Văn hóa nguyệt san (bộ mới), tập XIII, quyển 9 (tháng 9/1964) do Nha Văn hóa - Bộ Quốc gia Giáo dục (Sài Gòn) xuất bản. Năm 1972, trong Văn học Nam Hà (Nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn), Nguyễn Văn Sâm có ghi lại bài này cùng với các chú thích của Bửu Cầm. Năm 1974, cuốn sách này được tái bản.

Theo các nhà nghiên cứu, trong bài thơ này có nhiều chỗ chép nhầm về địa danh hoặc sai cả luật lục bát. Tuy nhiên, đây vẫn là tài liệu có giá trị về lịch sử, địa lý, văn hóa, nhất là trong việc cung cấp các địa danh lịch sử, địa danh dân gian. Nó có nét gần gũi như các bài Vè Các lái, đặc biệt là Vè Lái vô của dân ghe bầu miền Trung vào khoảng thế kỷ XVI đến năm 1945. Qua bài thơ, có thể thấy được sự giao thương kinh tế giữa các vùng miền ngày xưa khá nhộn nhịp, tấp nập, thậm chí các thương lái Việt Nam còn buôn bán sang tận xứ Cao Miên.

Bài thơ bắt đầu nhắc đến địa danh sông Gianh và cửa biển Thuận Cô, Nhật Lệ: “La Hà xuống ngọn sông Gianh/ Phỏng bán nhật trình vượt đến Thuận Cô… Một thôi đến Nhật Lệ môn”. Sông Gianh là con sông lớn nhất Quảng Bình từ 1672 là ranh giới Đàng Trong, Đàng Ngoài. Nhật Lệ ngày xưa là cửa biển lớn, nhà Nguyễn cho chôn cọc và giăng lưới sắt để phòng quân Trịnh đánh xuống phía Nam.

Rồi đến Quảng Trị, bài thơ nhắc đến cửa Minh Linh là cửa Tùng, cửa sông Bến Hải, ranh giới vĩ tuyến 17 (Minh Linh cửa ấy sắt chôn làm hàn); rồi đã nhắc đến cửa Việt: “Một ngày trải khắp giang san/ Đến miền cửa Việt sắt hàn hiểm sao”. Cửa Việt nguyên là An Việt hải môn, được đổi tên là Việt An từ năm Minh Mạng thứ nhất (1820). Đây là cửa sông Thạch Hãn. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, cửa Việt được “hàn sắt” (giăng dây sắt) để phòng thủ.

Đến Thừa Thiên Huế, bài thơ nhắc đến những cửa biển nổi tiếng:

“Một ngày lại đến cửa Eo
Cửa Hàn ngăn sắt sóng reo đầy rầy
Đến Tư Khách cũng một ngày
Một cảnh vượt thủy ngày này Cảnh Dương…”


Cửa Eo tức là cửa Yêu, tên định danh từ thời Lê. Cửa này còn có các tên khác là Hải Nhuyễn, Hải Noãn, cửa Yêu, cửa Eo; đến năm Gia Long thứ 13 (1814) mới được đổi tên là Thuận An (thuộc Phú Vang ngày nay).

Cửa Tư Khách tức là cửa Tư Hiền (huyện Phú Lộc), dân gian thường gọi là cửa Mù U, cửa Bạc Thái, cửa Biện, cửa Ong. Cửa biển này thời Lý có tên là Ô Long; đời Trần Anh Tông có tên là Tư Dung. Tư Khách là tên có từ thời Mạc (do kỵ húy tên Mạc Đăng Dung), năm 1841 (năm Thiệu Trị thứ nhất) mới được đổi tên là Tư Hiền.

Đà Nẵng Hải Khẩu (cửa Hàn) trên Cửu Đỉnh


Cứ thế, qua Đà Nẵng thì “Đà Nẵng cửa đặt tuần ty”, là nhắc đến chuyện các đời Gia Long, Minh Mạng, Đà Nẵng được làm bố phòng, xây cất kiên cố. Năm Minh Mạng thứ 17, cửa biển này được vua cho khắc trên Cửu Đỉnh.

Rồi qua “Đại Chiêm cửa ấy phỏng đi một ngày”, là nhắc đến cửa Đại ở Hội An ngày nay. Ngay từ thế kỷ 16, chúa Nguyễn đã buôn bán với nước ngoài qua cửa biển này.

Xuống Quảng Nam là “Hiệp Hòa bên nọ, này đây An Hòa”, là nhắc đến Hòa Hiệp hải khẩu, nơi hai con sông Tam Kỳ và Trường Giang đổ ra biển.

Quảng Ngãi có nhiều cửa được nhắc đến: Châu Ô (Thái Cần hải khẩu); Sa Trạm (Sa Kỳ) là một trong mười danh thắng tiêu biểu; Tiểu Hải; Đại Nham (Đại hải khẩu), còn gọi là cửa Đại Cổ Lũy, cửa Đại, nơi hai con sông Trà Khúc và sông Vệ đổ về, nơi đây có thôn Cổ Lũy nổi tiếng, gọi là danh thắng Cổ Lũy Cô thôn, xưa có đồn phòng thủ kiên cố của người Chăm; Mộ Hoa (thuộc Mộ Đức); Mỹ Á (Mỹ Ý), xưa gọi là Ma Ác môn; Bồng Sơn; Sa Huỳnh, nơi có đồng muối và di chỉ văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng; Kim Bồng.

Qua Bình Định, bài thơ nhắc đến các địa danh: Thời Phú; Nước Ngọt; Nước Mặn, là thương cảng buôn bán rất sầm uất với nhiều nước phương Tây từ thế kỷ 17.

Qua Phú Yên có: Cù Mông là một trong 6 cửa biển được nhà Nguyễn đặt tại Phú Yên. Cửa này sát đầm Cù Mông còn gọi là vũng Mồi, nổi tiếng nuôi trồng thủy sản; Xuân Đài (Tuy An); Mây Nước (Tuy Hòa); Đà Nông (cửa sông Bàn Thạch).

Qua Khánh Hòa có Nha Lỗ (Nha Phu, Nha Du…); Nha Trang (cửa Lớn) nổi tiếng cảnh đẹp; Tiểu Nha Trang (cửa Bé) nổi danh nước mắm ngon; Cam Ranh (Cam Linh, Cam Lân, Cam Hồ…) thời Nguyễn đã thiết lập tấn Cam Ranh đồn thủ, là một trong 3 cảng thiên nhiên tốt nhất trên thế giới.

Qua Phan Rang có cửa Man Rang, cửa biển thuộc Ninh Thuận, người Chăm gọi là Krong Pong hay Krong Pinh.

Đến Bình Thuận có cửa Man Rí (thuộc thị trấn Phan Rí Cửa), nước sông Lũy đổ ra; Phố Hải (thành phố Phan Thiết); cửa Cạn - Thiển Môn hải khẩu; Ma Ly (Hàm Thuận Nam).

Về Biên Hòa có Xích Lam, nhận nước từ sông Ray, sông dài nhất tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là đầu cầu tiếp nhận vũ khí từ những chuyến tàu không số khi ta mở đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ.

Cửa nhắc đến cuối cùng là cửa Lộn, tức Nước Lộn hải môn, thuộc xứ Đồng Nai.

Bài thơ Nôm chân chất của người xưa, không diễm từ nhuyễn chữ nhưng từ cái dung dị đó, lòng yêu đất nước, biển đảo quê hương hiện lên, nồng nàn, sâu lắng vô cùng.

V.T.S
(SHSDB22/09-2016)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                     Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.

  • HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                        Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.

  • NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ                     Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.

  • VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…

  • NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.

  • YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.

  • NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.

  • HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.

  • NGÔ MINH             Ghi chép

  • NGUYỄN THANH TÚ                          Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

  • NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                       Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này:                “Đánh cho giặc Mỹ tan tành                Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”

  • …Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG                                Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...

  • NGUYỄN VĂN VINH                                 Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui