Sau khi xây Văn Miếu tại kinh đô Huế vào năm Gia Long thứ 9 (1808), các tỉnh trong khắp đất nước lần lượt xây dựng Văn Miếu tại địa phương.
Quang cảnh Võ Thánh
Việc lập Văn Miếu cho thấy triều đình trọng Nho học và đề cao việc giáo dục. Tuy dựa trên nền tảng Nho học nhưng võ bị dưới thời Nguyễn cũng chiếm một vai trò khá quan trọng. Vì thế, vào năm 1835 dưới thời Minh Mạng, theo kiến nghị của Bộ Lễ, triều đình chuẩn y cho xây dựng Võ Miếu nhằm thể hiện sự chú trọng đến giáo dục quân sự và đề cao nghiệp võ. Theo vua Minh Mạng: “Điều cốt yếu trong việc trị nước phải gồm có cả văn lẫn võ, không thể thiên về một bên. Việc xây dựng Võ Miếu là việc nên làm... Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê đời nào cũng có người tài giỏi binh cơ mưu lược, huống chi triều đình ta từ lúc khai quốc cho đến giai đoạn Trung hưng, nhiều người ra mưu giúp nước, công lao rực rỡ không kém gì người xưa, cần biểu dương để khuyến khích nhân tài...”.
Võ Miếu được khởi công xây dựng từ tháng 9 năm Ất Mùi (1835) tại làng An Ninh thuộc huyện Hương Trà, phía bên trái Văn Miếu, trước mặt là sông Hương. Với chu vi khoảng 400m, cấu trúc Võ Miếu cũng không cầu kỳ, gồm một miếu chính theo kiểu trùng thiềm điệp ốc, phía trước có xây 2 nhà phụ gọi là Tả Vu và Hữu Vu đối diện nhau. Chung quanh có xây thành bao bọc, phía ngoài thành có nhà Tể sinh - là nơi giết súc vật khi tổ chức cúng tế. Năm 1839 (Minh Mạng thứ 20), triều đình cho dựng ba tấm bia Võ Công ở trước sân Võ Miếu. Những tấm bia này ghi tên những danh tướng đã đóng góp nhiều chiến công trong hai triều vua Gia Long và Minh Mạng như: Trương Minh Giảng, Phạm Hữu Tâm, Tạ Quang Cự, Nguyễn Xuân, Phạm Văn Điển... Về sau, còn có hai tấm bia ghi tên những Tiến sĩ đỗ trong 3 khoa thi võ dưới thời Tự Đức: 1. Khoa Ất Sửu (1865) 2. Khoa Mậu Thìn (1868) 3. Khoa Kỷ Tỵ (1869). Bên cạnh một số danh tướng Việt Nam như: Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Tôn Thất Hội..., trong miếu còn có bài vị thờ các danh tướng của Trung Quốc như: Hàn Tín, Trương Lương, Gia Cát Lượng... Việc tế lễ ở Võ Miếu được tổ chức một năm 2 lần vào mùa thu và mùa xuân. Phẩm vật cúng tế có những quy định riêng. Tuy nhiên, về sau phẩm vật có thay đổi (tùy theo quy định của từng triều vua) nhưng chủ yếu vẫn là tam sinh (trâu, heo, dê) và hương hoa, quả phẩm. Về hình thức, việc lập Võ Miếu nhằm tạo ra một sự đăng đối so với Văn Miếu.
Song thực tế, Võ Miếu không có vai trò quan trọng như Văn Miếu. Nho giáo hay chính xác là Nho học là hệ tư tưởng quán xuyến toàn bộ nền tảng chính trị giáo dục của chế độ phong kiến mà ở đây là triều Nguyễn. Văn Miếu ngày xưa là nơi thiêng liêng nhất đối với người đọc sách thánh hiền và Khổng Tử được tôn vinh là người thầy của muôn đời, ngang hàng với các vị Thánh. Võ Miếu được lập ra cũng để tôn vinh những công thần đã đóng góp nhiều công lao cho triều đại, mục đích động viên những người theo đòi võ nghiệp mong lập được chiến tích để lưu danh muôn thuở Triều Nguyễn lập ra Võ Miếu để khuyến khích nhân tài, tỏ sự công bằng giữa văn và võ. Nhưng tiếc thay, thực tế đã không được như vậy. Giá như đối với việc rèn luyện binh mã, nâng cao trình độ kỹ thuật quân sự, hiện đại hóa vũ khí luôn được chú trọng như việc đọc sách làm thơ thì đất nước ta đã có thể tránh khỏi họa xâm lăng suốt gần một thế kỷ. Võ Miếu vẫn còn đó, nếu để ghi danh những anh hùng có công với đất nước thì có lẽ sẽ không đủ chỗ. Nó chỉ còn là một chứng tích nhỏ bé, thầm lặng góp cùng những di tích khác khi nói về một Huế của ngày xưa.
Theo hueworldheritage.org.vn
TRẦN VĂN DŨNG
Huế trong thời kỳ Pháp thuộc đã được quy hoạch, xây dựng một cách bài bản và khoa học. Đặc biệt, nhiều công trình kiến trúc Pháp được xây dựng với sự đa dạng, phong phú về phong cách kiến trúc tạo nên một quỹ di sản kiến trúc có giá trị ở Huế.
TS. KTS NGUYỄN VŨ MINH - THS. KTS NGUYỄN VĂN THÁI
TS. KTS. NGUYỄN NGỌC TÙNG - ThS. KTS. NGUYỄN THỊ MINH XUÂN - TS. KTS. LÊ NGỌC VÂN ANH
Khi nhắc đến Huế, hầu hết chúng ta thường nghĩ đến mảnh đất Thần kinh với sự hiện hữu của kiến trúc Kinh thành, Lăng tẩm và cung điện của triều đại nhà Nguyễn cùng với kiến trúc nhà vườn Huế, cảnh quan danh thắng dọc bờ sông Hương.
PHAN THUẬN AN
Cũng như tại hầu hết các thành phố khác ở ba nước Đông Dương thuộc Pháp (Indochine Française), tại Kinh đô Huế, chính quyền thực dân ngày xưa đã thiết lập một khu phố mới theo lối kiến trúc châu Âu, thường được gọi là “Khu phố Tây” (Quartier Européen). Đây là một loại hình di sản kiến trúc ở Cố đô Huế ngày nay(1).
NGUYỄN XUÂN ĐỊNH
Nói đến kiến trúc Huế, dù chỉ một vài đặc điểm (sơ qua), không thể không đề cập đến những người ở Huế. Cho dù những người đó sinh ra ở Huế, hoặc ở xa đến, nhưng đều góp phần xây dựng nên một Huế có hơn ba trăm năm lịch sử.
Ngày 1/6, tin từ Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế cho biết di tích Phu Văn Lâu đã được sửa chữa về nguyên trạng ban đầu, và còn được tăng cường, gia cố tất cả vị trí xung yếu cho công trình.
Mức độ độc đáo của mô hình Kinh thành Huế, chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền... chắc chắn sẽ khiến bạn ngỡ ngàng.
Ứng Lăng - lăng Khải Định với những nét pha kiến trúc Tây Phương đã đem lại vẻ mới, lạ, độc đáo, được đánh giá có phần phô trương so với các công trình kiến trúc truyền thống của Việt Nam.
Tại Nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại nội Huế), sau một thời gian nghiên cứu phục dựng, mô hình nghiên cứu Điện Cần Chánh tỷ lệ 1:10 đã hoàn thiện và vừa đưa ra trưng bày.
Đàn Nam Giao triều Nguyễn là đàn tế duy nhất còn hiện hữu ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế.
Cổng tam quan được xem là bộ mặt của một ngôi chùa, bởi tam quan là cổng chính của tự viện. Chư Tăng, tín đồ và du khách ra vào tự viện đều phải qua cổng tam quan này. Do vậy cổng tam quan có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến đời sống tâm linh của các hành giả trong chùa và khách thập phương tín thí đến chùa lễ Phật.
QUÁCH TẤN
Trên tờ Tạp chí Sông Hương (Phụ trương Đặc biệt 2) ra tháng 12-1985 có đăng bài của ông Phan Thuận An nói về Cầu Trường Tiền.
PHAN THUẬN ANTrong quá trình hình thành và phát triển đô thị Huế gần 700 năm nay, đô thị này đã trải qua nhiều đợt qui hoạch. Trong đó, đợt qui hoạch vào đầu thế kỷ XIX khi triều Nguyễn xây dựng Kinh đô là đợt qui hoạch qui mô và có giá trị bền vững nhất.
NGUYỄN VĂN HOAVì có thú chơi sách và đi du lịch nên tôi có thú vui sưu tầm sách. Nhờ vậy mà trong tủ sách cá nhân của tôi đã có trên 100 đầu sách về Huế, nhất là của tác giả sinh sống ở Huế, ví dụ cuốn Thần kinh Nhị thập cảnh, thơ vua Thiệu Trị, do Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung biên soạn, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Nhà xuất bản Thuận Hoá xuất bản, Huế, 1997. Rất may mắn tháng 5 năm 2003, tôi lại có trong tay cuốn Kinh thành Huế của Phan Thuận An (từ dưới xin viết tắt PTA).
TRẦN TUẤN ANHNằm cách trung tâm thành phố Huế 5km về phía Bắc, toạ lạc bên bờ sông Hương ở vị trí Bao Vinh, một thương cảng nổi tiếng của Huế ngày xưa, những ngôi nhà cổ Tứ Giác(1) tại đây được xem như một trong những kiến trúc thuộc địa Pháp khá nổi bật ở Huế. Sự nổi bật thể hiện qua các đặc trưng kiến trúc mang đậm nét Huế, hoà quyện với phong cách kiến trúc Pháp du nhập vào Huế những năm đầu thế kỷ 20.
THÁI DOÃN LONGKiến trúc luôn luôn được hình thành phát triển và gắn bó với sự tiến hoá của văn hoá xã hội và lịch sử, bản thân từng công trình và tổng thể toàn đô thị đều ghi dấu thời đại và xã hội nào sinh ra nó.
NGUYỄN HỮU THÔNGHuế là một đô thị hình thành không từ xuất phát điểm hay bối cảnh của một trung tâm có quá trình hội tụ thương nghiệp, trao đổi hàng hoá hay giao dịch thương mãi, mà góp một nét rất riêng trong chân dung đô thị Việt Nam từ nhu cầu xây dựng khu trung tâm chính trị, hành chính quốc gia trong giai đoạn lịch sử đầy biến động và phức tạp.
PHAN THUẬN ANQuá trình hình thành và phát triển của đô thị Huế thường được chia ra làm 3 thời kỳ với 3 hình thái và phong cách kiến trúc khác nhau: phố cổ, phố cũ và phố mới. Từ "phố cũ" dùng để chỉ khu phố Tây được xây dựng dưới thời Pháp thuộc (1875-1954) ở bờ nam sông Hương. Cung An Định ra đời vào thời kỳ lịch sử ấy.
MAI VĂN LỘC (*)Huế được biết đến ngoài sự nổi tiếng của các di sản kiến trúc cung điện, lăng tẩm của triều Nguyễn còn do cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp đã gắn bó hài hoà với sự hình thành đô thị cổ, đồng thời cấu trúc quy hoạch đô thị chặt chẽ tạo nên một sự quyến rũ của thành phố, nơi mà môi trường thiên nhiên và các công trình xây dựng nhân tạo được hoà quyện tạo nên một “bài thơ tuyệt tác về đô thị”.