Nhà văn Nguyễn Quang Hà. Ảnh: Lê Vĩnh Thái
Giống như các đơn vị khác trên chiến khu luôn luôn cơ động. Tòa soạn báo khi ở Chà Tang, khi ở chân dốc Dòng và có khi xuống sâu như ở Ka Đe, thuộc Nam Đông bây giờ. Anh em đi công tác tản mác quanh năm. Ở nhà trực bên báo Cờ giải phóng có Ngô Kha, Quang Hà, Lê Huy, bên báo Cứu lấy quê hương có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Thân Mỹ. Người tôi gần gũi nhất là Ngô Kha, cùng làm trong một tờ báo và đặc biệt là có tâm trạng giống nhau, cho nên tâm tình rầm rì với nhau suốt ngày. Tôi là người đến sau cho nên được anh Ngô Kha dìu dắt rất tận tình. Anh Ngô Kha học đại học sử, tốt nghiệp, học qua một khóa báo chí rồi vào chiến trường. Trong ba lô anh chật ních tài liệu lịch sử Thừa Thiên - Huế nên anh làm báo rất dễ dàng, đụng tới đâu có đó, tuy vậy đi đến đâu ngày ngày anh vẫn ghi chép rất chu đáo, miệt mài. Bẩm sinh Ngô Kha có máu khôi hài, nên anh nhìn vào đâu cũng có thể cười vui được. Anh lấy ngay cả khuyết tật của mình để cười. Trong chuyến đi công tác với anh Ấm về Hải Thủy, Hưng Lộc, hai anh làm ca dao hò vè để phát động quần chúng. Anh Ấm làm câu mở đầu: “Gái sông Nong vừa hồng vừa trẻ” Ngô Kha nhìn anh Ấm cùng lé như mình, liền cười đọc: “Trai Quảng Trị vừa lé vừa ngơ”. Chả là Ngô Kha và anh Ấm cùng người Quảng Trị cả. Anh em trong hầm chữ A cười vang. Đến lượt anh Ấm không làm được câu tiếp, Ngô Kha đọc luôn: “Anh đi chầm chậm thì em chờ Tiếc rằng về sông Nông pháo dội nên thẫn thờ ngoái lui”. Anh em vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Giữa đạn bom có được tiếng cười vui như vậy không dễ. Ngô Kha kể ngày tết, anh với anh Trung về Quân khu ăn tết, thấy Trung, anh Bảy Tiến bảo: - Ta ra cho Trung một câu đối nhé. Nếu đối được ta cho một bao Điện Biên bao bạc. Anh Bảy Tiến đọc: “Chị Lựu đã bảy mặt con còn hồng sắc Lựu” Chả là Lựu là vợ Trung và Trung đối ngay: “Anh Trung hai cuộc kháng chiến vẫn còn Trung” Trung được cụ Bảy khen rối rít. Ngô Kha ngồi đâu là đem lại tiếng cười vui ở đó. Một hôm nhìn sang góc bên kia, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đang cắm cúi làm việc, Ngô Kha chỉ hai người bảo tôi: - Có hôm Tường chọc Xuân vui lắm. Hôm ấy Xuân đọc báo, quay lại nói với Tường: “Thì ra Phù Thăng tên thật là Phu, Tường ạ”. Tường tủm tỉm: “Đặt tên kiểu nói lái mà, Thằng Phu là Phù Thăng, như Xuân ấy, ông cũng nên lấy bút danh là Thùng Xăng thì hay. Hà thử lái lại xem, đúng Thùng Xăng là Thằng Xuân không?”. Kể xong, Ngô Kha cười. Tôi cười theo. Ở với Ngô Kha không nín tiếng được, luôn bị niềm vui lạc quan của Ngô Kha kéo theo. Tôi nhớ hôm ở Ư Ràng, ngày ấy đói lắm. Kiếm được khúc sắn cho vào bụng là mừng lắm. Thấy Kăn Ơi thổi lửa nấu sắn, Ngô Kha chỉ đống vỏ sắn nói: - Đồng bào cho mình chỗ vỏ sắn ni. Kăn Ơi hất rổ vỏ sắn xuống đất. Ngô Kha nói: - Hay đồng bào cho mình cái tút sắn này. Kăn Ơi không cho đáp gọn: - Anh là con người. Ngô Kha nói: - Mình là con người nên mình đói nè. Kăn Ơi cười. - Vỏ và tút sắn mình để cho heo đó. Heo nhà mình không biết nói, anh biết nói thì đi xin sắn đồng bào mà ăn. Ngô Kha cười lăn, bảo tôi: - Hóa ra Kăn Ơi để vỏ và tút sắn cho heo vì heo không biết đi xin. Vào bản đêm ấy chúng tôi được đồng bào nuôi. Ngô Kha lúc nào cũng niềm nở vui vẻ, đồng bào thương lắm, đặt cho anh cái tên thật hay: Quỳnh A Tao, tức là cây mía ngọt ngào. Ngô Kha rất tinh tế, anh lấy ngay kiểu tư duy của người dân tộc làm tiếng cười: Vào một chiều mùa đông, đường xa, đi công tác không kịp về cơ quan, tối ấy ngủ trong nhà đồng bào ở Ka Đe, thấy Hạnh xinh đẹp, Hạnh là nhân viên của cơ quan chúng tôi mà, Cờ Tu đến cạnh hỏi: - Hạnh có chồng chưa? Ngô Kha đùa: - Có rồi - Mấy con? - Năm đứa. Cờ Tu thiệt thà, tưởng thiệt, vẻ ngạc nhiên: - Rứa chồng Hạnh to bằng con trâu à? Ngô Kha cười to: - Con trâu to nhưng chỉ đẻ một con, heo nhỏ mà đẻ mười con. Cờ Tu cười vang: - Phải rồi. Phải rồi. Mình thua... Không biết mần răng cho con trâu đẻ 9, 10 con thì lợi lắm. Bụng con trâu to lắm chứ. Cả nhà sàn rung lên một trận cười. Quả thật cách tư duy, cách nói của đồng bào dân tộc thật thà nhưng rất vui. Ngô Kha kể: - Bữa ấy mấy chú lính giải phóng đi đường quá ngọ dừng lại nấu ăn. Củi không khô nên khói nhiều, mấy chị đi rẫy về la to: “Khói khói khói. Máy bay phát hiện ra sẽ bắn chết cả đồng bào. Bộ đội chết có bổ sung, đồng bào chết ai bổ sung”. Mấy chú lính dập tắt lửa. Một chú nhanh nhảu: “Các chị sinh con ra mà bổ sung”. Chị lớn nhất trong đám chị em đáp lại: “Cực khổ như ri mà sinh con chi, mà có sinh con còn lâu mới được đồng bào. Mình thương bộ đội còn trẻ ở ngoài Bắc về đây đánh Mỹ - Diệm, bữa sau có nấu sắn, nấu nước thì tìm củi thiệt khô nghe”. Ngô Kha kể tiếp: - Đồng bào thật thà lắm. Sau tết Mậu Thân địch chặn đường về đồng bằng, chúng mình phải lên đường tuyến lấy gạo. Đêm phải vào nhà dân ngủ nhờ. Cụ chủ nhà nói: “Mỹ - Diệm nó ném bom đêm ngày, không biết lúc mô. Bố biết các con ưng ngủ “một nhau”, nhưng không được, phải rải ra mấy cái hầm mà ở. Một hầm hai hay ba người. Đồng bào thương bộ đội “đạp dép” lắm vì thiếu đói và xáp với Mỹ - Diệm. Bộ đội “đạp giày” gạo cơm đỡ hơn, nhưng đụng B52 nhiều, thương lắm. Khi mô có B52 bố gọi các con dậy đề phòng, nếu các con không nghe, bố bắn CKC là các con tỉnh ngủ”. Anh chị em cười nói với bố: “Tiếng B52 nổ to gấp mấy lần CKC chứ bố”. Bố thong thả: “Ừ lo cho các con thì nói rứa chứ nghe cái mô trước thì dậy trước”. Đó, tấm lòng của đồng bào ta là như vậy, thương lắm. Tấm lòng của Ngô Kha với đồng bào rất gắn bó, ruột thịt. Đồng bào đặt cho anh cái tên Quỳnh A Tao là cây mía ngọt. Vì vậy Quỳnh A Tao đi đến đâu cũng được đồng bào thương. Có lần Ngô Kha đùa, dùng lý sự của đồng bào để cãi, vậy mà anh thắng, đồng bào lại tỏ ra quý anh hơn. Lần ấy Ngô Kha đi công tác với hai bạn nữ là Lợi và Đằng. Ngô Kha đi trước, Lợi và Đằng đi sau. Đến đoạn thấy máng nước, Ngô Kha thấy Ấp Lùm đang ở truồng tắm, súng và quần áo để một bên. Ngô Kha chào: - Chào Ấp Lùm, tắm mát hè. Ấp Lùm trả lời: - Mát. Quỳnh A Tao đi mô về đó. Đi sau anh có phụ nữ không? Ngô Kha vừa nói “không” xong thì Lợi và Đằng đi tới. Ấp Lùm vừa chạy lấy quần áo vừa hét to: - Mình thương Quỳnh A Tao, mà Quỳnh A Tao không thật với mình, mình giận lắm đó. Lợi và Đằng thì cười rúc rích. Sợ Ấp Lùm giận, sợ mối quan hệ với đồng bào sau này khó khăn, Ngô Kha tới, vỗ vai Ấp Lùm và nói: - Tuổi mình nhiều cái rẫy rồi, tóc mình bạc đây này, nên đi chậm. Khi mình đi thì hai o đang nằm võng và hát, khi họ đi thì mình có hai con mắt đằng trước, chứ có hai con mắt đằng sau đâu mà thấy được. Ấp Lùm hạ giọng: - Rứa họ hát bài chi? Ngô Kha liền cất tiếng hát: “Đàn đưa ta đi qua con suối, con khe. Qua nương rẫy qua bao nhiêu rừng”. Ấp Lùm và hai o cười thích thú. Ấp Lùm nói: - Xin lỗi nghe. Cái lý Quỳnh A Tao đúng. Bữa sau mình đem bắp cho. Ngô Kha bắt chước cái lý của đồng bào rất tài. Ngô Kha rất thích chơi chữ. Anh kể khi về công tác Hương Trà, gặp anh Ngọc, chân băng bó. Ngô Kha hỏi: - Anh bị thương ở mô rứa? Anh Ngọc đáp: - Cối anh. - Cối Xước Dũ, Hòn Vượn hay Mõm Xanh? - Cối đồng bào. - Trời ơi. - Trời tối vô sân nhà dân ở Xuân Hòa vấp cái cối giã gạo mới, sắc cạnh quá nên bị thương. Ngô Kha cười với chúng tôi: - Chữ “cối” anh Ngọc dùng thật thú vị. Nói không ngoa, hình như có Ngô Kha ở đâu là ở đó có tiếng cười. Không chỉ vậy, Ngô Kha còn rất giỏi làm cao dao, hò, vè, và cả làm thơ nữa. Thơ của Ngô Kha đến với mọi người cũng xôn xao như vậy. Ở chiến khu Thừa Thiên có một Khe suối đầy kỷ niệm. Ngô Kha đã làm thơ về Khe Trái: “Sông Bồ tách nhánh phải không Mà thành Khe Trái mênh mông giữa trời” Tiễn bạn gái về vùng sâu, lòng Ngô Kha không yên: “Em qua Ba Lô, em về Cắm biển Em đi dưới tầm đạn pháo Ly Hy Rọ, gáo phen ni hay tìm kiếm Biệt kích có lùng cứ đường đi?” Chuyến đi công tác Lê Xá Đông, gặp máy bay Mỹ bắn tới tập, tối ấy ngồi với du kích Phú Lương, Ngô Kha kể các trường hợp tránh đạn địch: “Hôm trước tôi ở Viễn Trình Pháo nã uỳnh uỳnh tôi xuống hầm yên Vừa rồi tôi lên Quảng Xuyên Súng bắn liền liền tôi chạy lăng xăng Hôm nay ở trạm Ba Lăng Đạn nổ tằng tằng tôi nép vồng khoai”. Cả toán du kích ngồi xung quanh cười vang. O Mến ở Đông Đổ đến sát bên Ngô Kha: - Răng anh không làm cho làng em ít câu? Ngô Kha liền đọc: “Quê em làm Đông Đề Trời mưa, đường đi trơn trợt..” Mấy o kêu: - Thơ chi lạ rứa anh Kha - Cứ bình tĩnh nghe tiếp. Ngô Kha đọc: “Mỗi khi Mỹ về, du kích súng rào” Các o thích chí cười râm ran. - Hay, cái đó đúng là làng em rồi đó. Gặp gì Ngô Kha cũng có thể làm thơ. Đây là cô nữ sinh Sài Gòn đi trên đường rừng Trị Thiên: “Duyên dáng nữ sinh Sài Gòn Bồng bềnh suối tóc gót son đường rừng Một thời... sợi nhớ sợi thương. Dốc cao suối thẳm dặm đường xa xăm”. Bài thơ tôi thích nhất là bài anh nhận được thư con sau 8 năm xa cách: “Mấy trăm cây số mà sao vời vợi Con lật, con đi, con nói bao giờ! Chắc mẹ vui khi con học i tờ Mong cha đọc dòng thư thứ nhất Ôi thời gian, thời gian trong nét mực Có đời con thành trang sách mới tinh Nét chữ con hay búp tay xinh Gửi cho cha chan hòa mặt giấy” Chuyện cũ Trường Sơn xưa đã mấy chục năm trường, vậy mà nhiều khi ngồi với nhau Ngô Kha còn nói: “Mình thấy như mình chưa ra khỏi rừng”. Tình cảm của anh với những kỷ niệm sâu nặng biết bao. Ước chi Ngô Kha chép lại những ca dao, hò, vè, thơ và những mẩu chuyện của anh, in lại trong một tập, tôi thèm đọc những xôn xao ngày ấy của anh để được sống lại một thời chúng ta đã sống. Có lẽ đó là một tập sách về Trường Sơn rất thú vị. N.Q.H (264/2-11) |
NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh. TCSH
PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).
...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...
... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta! (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)
ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.
NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.
TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.
LÊ MỸ Ý ghi (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...
MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...
THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.
PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.
NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.
VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.
L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.
L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới
ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.
THU NGUYỆT (Trích tham luận tại Đại hội VII Hội Nhà văn Việt Nam)
ĐẶNG SĨ THIỆNThời bao cấp, ăn còn đói mà thơ lại hay. Sang thời nay ăn thừa thãi thì người ta lại không quan tâm đến thơ, thậm chí quay lưng lại với thơ (lời Bằng Việt).