Những truyền thuyết, huyền thoại là tuổi thơ của một xứ sở, một tộc người. Các câu chuyện tình mang tính chất như thế: Trương Chi - Mỵ Nương, Mỵ Châu - Trọng Thủy, Giáng Kiều - Tú Uyên, Chữ Đồng Tử - Tiên Dung,… đã được tấm gương thi ca phản chiếu vào tâm hồn chúng ta, tạo thêm niềm cảm hứng trong cuộc sống.
Ảnh: internet
Tuy vậy, từ sau Nguyễn Nhược Pháp - một nhà thơ được xem có tính cách Việt Nam rõ nét nhất (Hoài Thanh), dòng thơ này gần như bị chìm khuất. Có ý kiến cho rằng, cuộc sống hiện đại khiến con người nhanh chóng rời bỏ quá khứ, vội vàng đoạn tuyệt với tuổi thơ, để có thể trưởng thành sớm hơn… Và “những Trương Chi phải thả thuyền đi nơi khác/ khúc sông kia mất hẳn linh hồn”. Vậy đó, những tâm hồn lãng mạn gần như bị thương tổn…
Anh bạn Trần Phá Nhạc, một nhà thơ từng gắn liền quá khứ với dòng sông Hương trong một tâm trạng như vậy đã viết bài Trương Chi. Bài thơ viết đã lâu, nay Sông Hương mới có điều kiện giới thiệu với bạn đọc. Đọc Trương Chi ta như có lại niềm rung động trong cuộc hẹn hò bất tận với những Trương Chi trong huyền thoại của mình. Và chúng ta vẫn còn tìm thấy đôi điều an ủi, khi được cảm xúc và nhiệt huyết dòng thơ này dẫn dắt tâm hồn mình về gần với ngọn nguồn có lần được rọi soi qua câu chuyện cổ...
Phạm Tấn Hầu giới thiệu
TRẦN PHÁ NHẠC
Trương Chi
1.
Nhớ xưa trong núi hoa còn ngủ
cánh khép ngây thơ giữa nụ hiền
chưa quyện hương thơm đầu suối biếc
nước xanh từng hạt hãy còn nguyên.
Bỗng đâu một chàng ngân sáo thổi
hoa nở bâng khuâng hoài không thôi
suối chảy vội vàng qua lối hẹn
sông đa tình vỗ nỗi lòng nghe.
2.
Chàng ấy tên chàng Trương Chi
sáo ấy tên sáo đoạt hồn
sông ấy tên sông định mệnh
suối ấy tên suối viễn mơ
chảy òa theo nhạc tràn đêm nhớ
hồn nở thành hoa là Mỵ-Nương,
hóa thân con gái quan Thừa-Tướng
để được nghe chàng trổi tiếng thương.
Sống trong lầu vàng bên bến nước
trăm năm không bước khỏi màng nhung
nghe dưới thuyền cầm rung giọng phượng
hồn nguyệt thường tan xuống giữa dòng.
Quá khuya rèm hồng sương lạnh thấm
nàng đứng đăm đăm nhìn khoảng sông
không thấy rõ mặt chỉ thấy bóng
ngần ấy vẫn đủ nguôi ngoai nhiều.
sáng ra bóng chàng tan dưới nắng
nhưng nàng thẩn thờ chưa thôi say
nhìn đâu cũng thấy chàng nơi ấy
áo xanh thấp thoáng bay ngang mày
đưa sáo hớp hồn lên miệng thổi
mấy từng không lạnh thổi hơi may...
3.
Trương-Chi thả thuyền đi nơi khác
khúc sông từ đó mất linh hồn
nắng vàng trôi xuống càng thêm lạnh
trăng ướt trào theo nước mắt nàng.
Tự hỏi: Chàng giong về nơi đâu?
Sáo vàng đang thổi ngất lòng ai?
Biết đến khuya nào mới nghe lại
tiếng vang ngoài gió gọi triều lên
những ngày nhớ ấy đối với nàng
muôn vật thế gian mờ nhạt hết
chỉ riêng thuyền mộng mất là không.
Nhiều sớm gối hoa chưa động tóc
chăn chiếu chưa nhàu vết áo nhăn
bởi nàng suốt đêm chẳng chợp mắt
ngồi tựa song cửa nhìn ánh trăng.
4.
Thừa-Tướng trông nàng gầy sút hẳn
biếng ăn nằm vùi đến tàn canh
vội mời lương y tới bắt mạch
thấy tim cùng nhịp với cung đàn
ánh mắt van lơn chừng sắp rượi
đang ngủ môi yêu chợt nở cười
như mộng gặp người trong cõi tím
cầm tay trò chuyện giữa ngàn sim
nữ tỳ tâu chắc thương chàng ấy
hồn hoang réo rắt gọi gần đây...
Thừa-Tướng sai tìm Trương-Chi ngay
đưa lên lầu vàng kể chuyện nàng
vén màng thấy bóng nằm mê sảng
vẻ mày chưa cạn giấc sầu đông
ôi! đóa hoa tươi cài lệch tóc
tàn theo gương mặt đẫm buồn kia
chàng nhận ở lại chăm sóc nàng
mối tình nghệ sĩ sớm mang mang
nghĩ mình mặt mày trông ghê mắt
quần áo sông hồ quá nát thân
trăm năm không khỏi ôm tình hận
trốn cuối chân mây vẫn lụy trời
vừa sắc thuốc, chàng vừa hát thầm:
“Hãy uống đi nàng những rễ ngọt
kỳ hoa dị thảo tận ngàn thương”
ngờ như thuốc đắng chàng đun nấu
đã chín nhừ trong lửa tương tư.
Một chiều chàng đem sáo ra thử
tiếng nhỏ như hơi tàn trong tim
song nàng trong phòng thoáng nghe kịp
mừng hỏi: “Phải thuyền chàng về kia?”
vùng chạy ra cửa nhìn xuống sông
nữ tỳ thưa: “Không chàng ở đây”
nàng trố mắt chưa vội tin hẳn
chặp sau thẹn thùng nói nhỏ rằng:
“Hãy giúp ta gặp chàng với chăng?”
Đoạn nàng chải tóc và soi gương
vội vàng sợ chàng bắt gặp được...
chàng đội nón lá che nghiêng mặt
sợ làm người đẹp kinh động lòng
nhưng nàng hốt nhìn chàng đăm đăm
ngã xuống chiếu hoa và im nằm
hai vai rung rung nén tiếng khóc
chiều rơi ướt đẫm cả lòng nhau
người héo khô người như cạn máu
gục đầu chìm lại giấc hôn mê.
5.
Quay tìm thuyền neo trên vũng tối
trót nghe thầm vỡ bến mê rồi!
Từ đó tiếng sáo tài hoa tắt
Từ đó hồn thuyền vắng bến trăng
Từ đó mây giăng đè mộng dữ
mưa giăng tuyệt vọng bốn phương tràn
dâng tấp thuyền chàng nghiêng bãi cạn
nhìn trong khoang không có bóng ai
nước đầy cây sáo bơ vơ mãi
ngùi ngùi nhớ môi người chìm thây
biết chàng trầm mình chỗ nước xoáy
hồn ướt vùng bay chạm mái đình
theo sương sà thấp bên vườn nghỉ
hồn chàng nhập thân cây bạch đàn
trên ngọn về khuya vẳng tiếng hát
mấy cung bẽ bàng trong lá xanh
nghe muốn chồn chân đoàn lữ khách
mỗi chiều âm khí lạnh vườn hoa.
Người ta nghi bạch đàn có ma
hạ cây đốn gỗ mang ra đường
người nhà quan Thừa-Tướng mua được
tiện chén uống trà dâng Mỵ-Nương
khi nàng rót nước chợt giật mình
thấy bóng chàng hiện trong chén xinh
nâng sáo thổi khúc tuyệt mệnh ca.
6.
Nghĩ phải ly biệt nhau quá lâu
Tình đầu u uất giận vì đâu?
Nghĩ đời biến động hai lần gặp
sóng sầu sục dậy khắp hồn đau
thề rằng nhắm mắt tan thành khói
bay đến bên nàng hẹn kiếp sau
nước mắt Mỵ-Nương trào xuống chén
chén tan thành nước dưới trăng rằm.
7.
Phải chăng hồn chàng tan ra trước
chờ bên rừng trúc ngập trầm hương
ở đó chàng cất cao tiếng sáo
khiến kẻ đi xa về đoàn tụ
chim muôn xao xác sớm kề nhau
suối ôm sỏi trắng lên bờ ngủ
mây xuống ăn nằm với cỏ xuân
bướm mừng hôn nhẹ mai hàm tiếu
lau lách bạch đàn cũng biết yêu.
(TCSH331/09-2016)
Vân Long là tạng người thơ không chịu cũ. Nhà thơ luôn ý thức được việc làm mới mình để có thể đồng hành với nền thơ đương đại và nhịp thở nóng hổi của cuộc sống thường nhật.Dù là trữ tình tự sự hay nội cảm ngoại quan, thơ Vân Long luôn để lại những dấu ấn sáng tạo - dấu ấn lao động thơ. Vân Long đã từng có duyên với xứ Huế qua “Đêm sông Hương”, “Vườn Huế”... được tuyển chọn trong Tuyển thơ Sông Hương 20 năm...
khi em là vực sâu im lặng tôi pho tượng đá lắng nghe...
...chim chích bay về đăm đắm mắtnghe phế hưng bông lơn ký ức thành xanhrêu...
Nguyễn Văn Quang - Trần Thu Hà - Nhất Lâm - Lê Ngã Lễ - Mai Văn Hoan - Ngàn Thương - Ngô Thị Hạnh - Nguyễn Thánh Ngã - Xuân Thanh - Phan Văn Chương - Thạch Thảo - Trần Đôn - Nguyễn Nhã Tiên - Đoàn Lam - Tiến Thảo - Đoàn Giao Hưởng
...Cả thành phố lúc nào cũng rậm lờiAnh không thấy tấc vỉa hè nào dành cho mình cả...
...họ mơ thấy Hồ Gươmlà một vò rượu lớnbị bỏ quênbên sông Hồng đến cả ngàn năm...
Mai Văn Phấn - Hoàng Chinh Nhân - Lê Huỳnh Lâm - Ngô Thiên Thu - Bùi Đức Vinh - Nguyễn Hoa - Hoàng Nguyệt Xứ - Lê Hưng Tiến - Phạm Xuân Trường - Ngô Công Tấn - Từ Hoài Tấn - Văn Lợi - Quang Tuyến - Nguyễn Loan - Lê Vĩnh Thái - Vĩnh Nguyên - Hoàng Ngọc Quý
HUỲNH THÚY KIỀUHọ và tên: Huỳnh Thuý Kiều; Cầm tinh con Ngựa - 1978Bút danh: Hoa Đồng Nội. Nơi làm việc: Nhà xuất bản Phương Đông tỉnh Cà MauĐã có tuỳ bút, tản văn, đặc biệt là thơ đăng trên các báo Trung ương và địa phương. http://huynhthuykieu.vnweblogs.com
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOSinh năm: 1979Quê quán: Hà TĩnhTốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Khoa học HuếHiện là biên tập viên tạp chí Đà Nẵng ngày nayhttp://nguyenthianhdao.vnweblogs.com
Trần Thị Huê, sinh năm 1970 ở Hiền Ninh - Quảng Ninh - Quảng Bình. Năm 1997 xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Nhật Lệ với chùm thơ 3 bài Chiều, Đợi, Cỏ xanh. 5 năm sau chị xuất bản tập thơ đầu tay Sóng vọng. Nhưng phải đợi đến những năm gần đây gương mặt thơ chị mới hiển lộ với những đường nét vụt hiện, gấp khúc. Cái - tôi - cá - thể đã làm giàu thêm mục đích và ý nghĩa sáng tạo nghệ thuật.
Bạch Diệp - Vi Thuỳ Linh - Phan Huyền Thư - Phùng Hà - Nguyễn Thị Hợi - Hồng Vinh - Đông Hà - Nguyễn Thị Thái - Hoàng Thị Thiều Anh - Đinh Thị Như Thuý - Nguyễn Thị Thuý Ngoan - Thạch Thảo
...Vắt qua bầu trời mờ cánh chim nhỏVắt ngang dòng sông trổ nụ hồngVắt ngực tình em bay hương cỏVắt suốt mùa đợi một ngóng trông...
Nguyễn Trọng Tạo - Tường Phong - Trần Áng Sơn - Nguyễn Thánh Ngã - Ngô Hữu Đoàn - Nguyên Quân - Nguyễn Thành Nhân
HÀ NHẬTLTS: Lớp học sinh niên khóa 1964-1967 ở Trường Cấp 3 Lệ Thủy, Quảng Bình 40 năm trước đã sinh ra hàng chục nhà thơ, trong đó có những người đã thành danh như Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty... Công lao bồi dưỡng, vun đắp nên những nhà thơ đó là hai thầy giáo dạy văn cực giỏi: Lương Duy Cán và Phan Ngọc Thu.
...Lão du - già xát đầy mình tro tử thi vừa nguộiƯớp xác phàm bằng hương liệu sắc - không...
...ai đuổi theo xe tăng, bắn B40 vào xe tăng, rồi bị xe tăng nghiền nát trên con lộ Bốn?ai đạp phải mìn cụt một chân ở chi khu Xuân Lộc, rồi bằng nạng gỗ với một chân...
Nguyễn Thiền Nghi - Trần Hoàng Phố - Tiến Thảo - Xuân Thanh - Võ Văn Luyến - Nguyên Hào - Hoàng Cát - Ngô Hữu Đoàn - Trần Kiêm Đoàn - Mai Thìn - Đặng Như Phồn - Tôn Phong - Kiều Trung Phương - Đinh Thu
Tên thật: NGÔ THỊ KIỀU HẠNHNăm sinh: 24 - 12 - 1983 tại Cam Ranh – Khánh Hòa Hội viên Hội VHNT Khánh HòaĐã có thơ đăng Kiến thức ngày nay, tuần báo Văn Nghệ, và nhiều tạp chí trong nước.
Sinh năm 1965 tại Thái Nguyên – Tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du, vừa viết văn làm thơ. Hiện đang là biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tác giả của 4 cuốn tiểu thuyết gây sự chú ý của dư luận văn chương – Nhưng thơ mới là bản ngã sáng tạo chính của Nguyễn Bình Phương với 3 tập thơ đã xuất bản: Lam chướng; Xa thân; Từ chết sang trời biếc...
Là một tác giả thơ quen biết trên tạp chí Sông Hương, gần đây với tập thơ Ngày rất dài (NXB Hội Nhà văn, 2007), Đoàn Mạnh Phương đã và đang được dư luận chú ý bởi những nỗ lực cách tân thơ.