Triệu Từ Truyền - hòn sỏi và giọt

08:41 16/10/2015

NGÔ ĐÌNH HẢI

Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

Tập thơ Hạt sứ giả tâm linh(*) anh vừa đưa tặng có 79 bài, nhưng với tôi hầu như bài nào mang nặng một thứ. Cái thứ bồng bềnh như mây, lãng đãng như khói và mong manh như chút nắng chiều. Cái thứ là tiếng cười, là nước mắt, là những đêm thức trắng, ngày ngẩn ngơ. Là chiếc cầu bắc ngang qua con sông chữ, nhận chìm cả một đời Triệu Từ Truyền ngụp lặn trong đó, để có những vần thơ. Trước sau vẫn vậy, hồi nào tới giờ vẫn vậy, nó ở trong thơ và nó đi vào đời, bình thản như một chứng nhân, một cơn gió nhẹ thoảng buổi trưa hè… Một chữ TÌNH của Triệu Từ Truyền liệu có đủ chăng? Hay bởi tại cái đa mang của một tâm hồn nghệ sĩ, mà phó mặc cho con tim mình lên tiếng.

Thơ tình của chàng trai trẻ Triệu Từ Truyền từ ở thập niên 60 đã không đơn thuần là những rung cảm của đôi trai gái, nó là sự hòa quyện của con người với chung quanh, nó luôn có sự hiện diện của thế giới mênh mông trong cái không cùng của Trời đất, cái thênh thang của tự nhiên và đầy trăn trở của cuộc sống. Cái tình đó cũng “lớn” dần theo thời gian. Nó ám ảnh, nó làm thành những câu hỏi, và Triệu Từ Truyền buộc phải trả lời nó bằng những câu thơ. Những câu thơ luôn ẩn chứa những thắc mắc, những đè nén của cái tình không tuôn cùng một lúc:

đá chồng chất chân thành
phơi lòng ra nắng gió
sao không thấy xuân xanh
mãi bươi tìm dưới cỏ…

            (Vườn Xuân)

Và cũng từ rất sớm, Triệu Từ Truyền đã mang thơ với ý tưởng là một thứ ngôn ngữ cử động, nó chất chứa ý nghĩa, nhu cầu tâm hồn, u uất siêu hình, mà tiếng nói hằng ngày không biểu hiện, bộc lộ hết được. Khát vọng bày tỏ xuất hiện trong tâm trí như một nhu cầu tự thân:

Tiếng khóc là tiếng hát
Mỗi giọt nước rơi trầm lạnh
Giọt khô buốt giá bay theo
Uất hận hình thành mầm sống
Bi đát trong mỗi tế bào
Ào ra theo từng lời hát

            (Sao em khóc ra lời)

Nếu coi thơ là phản ánh của vô vàn hiện tượng, là của những ẩn dụ cho tâm trí, thì thơ Triệu Từ Truyền gần gũi hơn. Chuyện đời, chuyện người, chuyện đi qua thường ngày, nhưng với Triệu Từ Truyền nó ngồn ngộn chất nhân sinh, đầy màu sắc, nó xô đẩy con người về đúng với bản ngã của mình:

hòn sỏi tịnh tâm bên triền suối lạ
không nhận rong rêu quên hết cao xa
hòn sỏi làm tinh khôi giọt nước ta bà
ngấm hết vào tế bào thiếu phụ

 
cô gái ấy hồn nhiên giẫm lên suối cạn
tận bây giờ vẫn bước tới một lối xưa
vẫn chìm nổi giữa chốn sạch trơn giọt nước

            (Hòn sỏi và giọt nước mắt ta bà)

Con đường thơ đã định hình, những lý giải rất riêng về tình yêu và tồn vong sinh tử trong một triết thuyết cũng đã đầy ắp những suy tưởng, làm thành một tính nhất quán, đồng hành để chuyên chở và đào xới từng ngõ ngách của tâm thức nhà thơ, rộng hẹp không còn cần thiết nữa, nhưng chắc chắn nó không hề phẳng lặng:

Chắc chắn tế bào trong anh đầy ắp hạt sứ giả của em
Ngược lại tim em tràn ngập từ trường tình anh
Bông cúc vàng rải hạt xuống lòng anh
Mảnh đất lành muôn thuở
Em về đâu đi đâu vẫn không đành
Người tri kỷ xưa sau vẫn vậy
Lá luôn bên cành
Bông sao đành bỏ vườn, mình ơi

                        (Nói với mình)

Tư duy triết học vào thơ, bắt nguồn từ thực tại, từ những thành tựu của vật lý đương đại và đi từ “thức” tới “tâm” một cách mê hoặc, một cái nhìn mới về thế giới quan, cái ràng buộc giữa người và người, hạnh phúc hay khổ đau luôn có sẵn một tương quan và gắn kết hiển nhiên bằng những tương tác, tất nhiên là mọi chuyện còn ở phía trước và nhà thơ vẫn an nhiên đi tới:

mắt hoang dại và môi cười son nắng sớm
bàn tay nồng nàn bờ vai dốc đồi
em tương tác bóng với hình
cho quang tử đi hoang cuộc đời nắng ấm
giữa thung lũng cỏ xanh mướt tuổi
mùa hạ buồn tan vào khoảng không ngoài mắt lưới
còn lại mùa thu tiếc nuối
em nhả ra bóng em trong vũ trụ sáng
hình em trong vũ trụ tối phải không

                        (Ảo giác mùa xuân)

Ngồi đọc “Hạt sứ giả tâm linh” như tự thưởng cho mình một ly nước mát. Những vô tri biến lặng, những phồn thực bốc hơi, những nghi toan gai góc nhường chỗ cho yêu thương dàn trải, cho ngôn ngữ thả rong bơi lội trên dòng sông chữ nghĩa:

mặt một khuôn mắt buồn môi ướt
giống hệt nhau nên cuốn hút không rời
tri kỷ tâm hồn tri âm thân xác
giữa hoang mạc đôi du tử long nhong
anh phiêu bạt không còn biết tuổi
em lăn tròn không đếm thời gian
hai ổ cỏ trên đường chân trời

                        (Cỏ long nhong)

Cái nhìn từ nguồn cội bao dung của thơ. Nó không phải nhìn từ những thứ ở trước mắt. Mà như ở một nơi cao và xa vời vợi, ở một nơi chỉ có ta và cô đơn làm bạn, ngửa mặt thấy trời, cúi xuống thấy cái tình rơi rụng, thấy cái bản ngã phơi bày, và những câu thơ lắc rắc như những hạt mưa phùn thấm lên áo những da diết yêu thương:

năm đi qua tôi còn đi lại
em đi ra khỏi câu chữ tới đây
rồi tặng tôi bầy từ hoang dại
lùa hết vào những tứ thơ bay

 
em viết như rải hạt muôn nơi
hạt tan ra sóng vỗ tim tôi
rồi tặng tôi bầy từ hoang dại
lớn ngược thời gian đường về nôi

 
em tặng mỗi bông hồng vàng hư thực
con chim khách buồn khóc với đàn én vây quanh
thẹn với tiếng hót chính mình

                        (Tình lạ)

Thơ có lúc như thầm thì, như kể, như tâm sự với chính mình, có lúc lại mênh mang, như soi rọi như nhắn nhủ với những tận cùng sâu thẳm nhất. Không có những mảng màu sặc sỡ, không có những điểm trang làm dáng, khuôn mặt thô mộc của chữ cứ hiện ra bủa vây, nặng trĩu và đỏ ối hạt cà phê ngày mùa trên cao nguyên:

cà phê chín đỏ vùng cao Đông bắc
từng bước đi đếm hạt nhớ em
sương lạnh túm chặt núi đồi
hiện ra đồng bằng Tây nam lạnh ngắt
ảo giác rồi rơi nước mắt

                        (Suối vô cảm)

Mộng du của yêu thương là hạnh phúc, là hành trình đi về của những bến bờ quen thuộc, không có nó thơ chỉ còn là con ngựa thồ già nua, mệt mỏi kéo chiếc xe chở đầy những ưu tư, khắc khoải. Không có nó thơ chỉ còn là người lữ khách cô độc trong bóng tối của con đường dài thăm thẳm, những giấc mơ đêm biến dạng, và ngày nhọn hoắc chực chờ những vết đâm đau nhói:

người đã tới dù không còn chim khách
bây giờ mỗi đốm hồng gặm nhấm trên nền xanh
tia lửa nào phát sáng từ anh
thắp một chân trời hoa trổ

                        (Trổ bông)

Quy luật của một kiếp người bày sẵn, muốn hay không muốn mà được đâu. Quay đầu nhìn lại chếnh choáng những cơn say, thơ mộng cũ nép mình nhường chỗ cho buồn vui, cho dằn vặt với những bước đi đầy rẫy những cung bậc thăng trầm, khi “Khép một vòng tròn”:

số không của sáu mươi năm
của thế kỷ phương đông
anh ném váo canh bạc đời sạch túi thời gian

 
ngày sinh nhật trong bảo tàng
anh đứng bên ngai vàng triển lãm
như nhốt một sinh vật vào Thảo cầm viên
con sư tử già rống lên đừng tuyệt vọng
chiếc ghế uy nghi mong hóa kiếp tro tàn…

                        (Khép một vòng tròn)

Và tiếng gào âm vọng của một thời:

đã tới lúc sải bước độc hành
sa mạc bao la thân mong manh
chút lệ này đừng cho là khóc
tiễn trần gian một kiếp tung hoành

                        (Sư tử độc hành)

Gấp tập thơ lại, trả cho không gian cái tĩnh lặng cố hữu. Và tôi cũng sẽ im lặng. Im lặng để soi rọi lại chính mình trong cái hổn quan thường nhật, để chia tay với phù phiếm và bỏ qua những lạc điệu vốn có. Im lặng để được trò chuyện với giới quan khác, với những hồi ức và trăn trở. Im lặng để được nhìn thấy ở đâu đó, có một hòn sỏi nhỏ nằm trơ vơ bên bờ suối cạn, đang cười ngạo nghễ với giọt nước mắt ta bà như có như không…

Tháng 3/2015
N.Đ.H  
(SDB18/09-15)

...........................................  
(*) Hạt sứ giả tâm linh - Tập thơ Triệu Từ Truyền - Nxb. Hội  Nhà văn, 2015.  



 


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.