Triết gia của cuộc khêu gợi cảm quan

15:59 13/07/2020

Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.

Ảnh: internet

Bản dịch tiếng Anh của dịch giả William Weaver (1923 - 2013) ra mắt tháng 9 năm 1985, nhà thơ Seamus Heaney (1939 - 2013) ngay sau đó đã đăng bài điểm tác phẩm này trên tờ New York Times với cái tựa đề “The Sensual Philosopher”. Bản Palomar tiếng Việt (dịch lại bản năm 2004) được phát hành ngày 09/08/2019 (Nxb. Văn Học, Vũ Ngọc Thăng dịch), xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài điểm sách nói trên của chủ nhân Giải Nobel văn chương 1995.


 

SEAMUS HEANEY  


Những phép đối xứng và số học luôn kích thích trí tưởng tượng của Italo Calvino nảy nở trò chơi quyến rũ và triển khai những biểu diễn diệu tưởng của nó. Từ thưở đầu, ông đã trao cho chúng ta một số khêu gợi nhị phân tuyệt vời trong truyện Tử tước chẻ đôi, một mẫu thức nhị nguyên về thiện và ác, một truyện-kể-sóng-đôi, được kéo mở một cách thông suốt và tinh quái như thể kéo mở một chiếc phéc mơ tuya trong một căn gác áp mái. Cùng một xung lực ngụ ngôn hoạt động với cùng một tính phóng khoáng trong Những thành phố vô hình, song thậm chí tinh nghịch và sáng tạo về cấu trúc hơn. Thế rồi ta có các truyện-kể-kiểu-trò-chơi-dây trong Lâu đài của những số phận đan chéo, được quy định song không mang tính xác định từ những mối quan hệ nội tại giữa các lá bài trong bộ tarot. Giờ thì chúng ta tự hỏi, liệu ông có thể dấn bước như thế lần nữa không?

Cuốn sách mới của Calvino có ba chương mục chính mang tiêu đề: “Những ngày hè của Palomar”, “Palomar trong thành phố”, và “Im lặng của Palomar”. Mỗi chương mục chính có ba chương mục phụ, mỗi chương mục phụ có ba mục, và Calvino đã lập ra một hệ thống đánh số cho chúng. “Các số 1, 2, 3 đánh dấu các tiêu đề trong mục lục” - ông viết - “dù ở vị trí thứ nhất, thứ hai, hoặc thứ ba, bên cạnh việc mang giá trị thuần thứ tự, còn tương ứng với ba khu vực chủ đề, ba loại trải nghiệm và thẩm tra, mà qua những tỷ lệ khác nhau, hiện diện trong tất cả các phần của cuốn sách.

“Những mục đánh số 1, nói chung, tương ứng với trải nghiệm thị giác...

“Những mục đánh số 2 chứa các yếu tố nhân học, hoặc văn hóa theo nghĩa rộng...

“Những mục đánh số 3 can dự đến trải nghiệm tư biện nhiều hơn, về vũ trụ, thời gian, tính vô cùng, mối quan hệ giữa cái ngã và thế giới...”.

Nhưng liệu rằng động lực hành ngôn này, vốn duy trì sự trung tính hết mực như được giải thích từ các nguyên tắc kết cấu ra cuốn sách, ở văn bản thực thụ có thể lan tỏa niềm thú vị và sự tán đồng xuyên suốt trong chúng ta hay không?

Vui thay, lược đồ hóa ra không chỉ là một bảng kê đơn; điều đối với một trí tưởng tượng không nặng ký bằng có thể là một mành lưới, thì ở đây hoạt động như một ván bật, và quả thật, dẫu sao, người ta ngờ rằng các chất liệu số học này đã phát triển từ những ngẫu tính sáng tác chứ không phải ngược lại. Mỗi trong các mẩu truyện đều mang cốt cách của một cảm hứng đơn biệt được thu chụp lúc nó trỗi lên và sau đó được trình tấu bằng toàn bộ tính sống động xác đáng của nó - dù rằng chỉ vừa đúng để cạn kiệt năng lượng ban đầu của mình.

Anh bạn Palomar là một ống kính được tác giả của mình sử dụng để thẩm định những hiện tượng của thế giới, song ống kính này lại lý tưởng cho việc biến thành một tấm gương phản ánh những ngại ngần và những tự điều chỉnh trong chính cái tâm trí mang tính phản ánh của anh bạn Palomar. Cuốn sách bao gồm một chuỗi các miêu tả và suy tưởng theo cấp độ, trong đó nhân vật đối mặt với vấn đề khám phá vị trí của mình trong thế giới, và chứng kiến những khám phá đó tan biến dưới cuộc rà soát trí tuệ thường lệ của mình.

Thế là động thái đầu tiên được mang tiêu đề “Đọc một ngọn sóng”, và ở đây, anh bạn Palomar cố gắng ngắm nhìn, miêu tả, và chụp bắt bản tính chính xác của một ngọn sóng đơn lẻ vào trong ngôn ngữ. Những sự chính xác của anh, mà anh phải xét lại không ngừng, liên tục thích đáng và liên tục bất cập; song chính những nhỡ nhàng này lại cấu thành sự thú vị của người đọc. Tuy nhiên, ở động thái cuối cùng, thì anh bạn Palomar đã hướng ánh mắt vào trong, và bây giờ là, như tiêu đề đặt cho mẩu truyện, “Học sự đã chết.” Song niềm khát khao về cái tri kiến nào đó của anh tiếp tục bị trêu ngươi và không được thỏa mãn: “Bạn không được nhầm lẫn sự đã chết với sự không tồn tại.” Ở giữa đó là 25 mẩu văn khác mà người ta lần lữa gọi là những bài thơ văn xuôi, vì điều đó khiến chúng nghe ra quá bị tác động, kém hài hước, hoặc lần lữa gọi là những chiêm nghiệm, vì điều đó hờ hững với sự bình dị và hớp hồn đáng yêu mang tính ẩn dụ của chúng. Dòng viết của Calvino thì thầm, nhẩn nha, chặt chẽ, vui hưởng chính nó một cách hết sức trêu chọc. Ánh mắt của ông, như khi anh bạn Palomar chiêm ngắm các vì sao, “gìn giữ sự cảnh giác, dọn mình, giải xả mọi sự chắc ăn”. “Dải Ngân Hà tháng Tám - ông bảo chúng ta - khắng khít dày đặc, có thể nói, ràn rụa ra cả hai bên luống.” Sự giản dị lộng lẫy của dòng viết, nghĩa vụ kép của nó trước thế giới và trước những ngôn từ xứng với thế giới, cái tri giác chan hòa về điều gì đó được khám phá một cách ngọt ngào và một cách cá nhân, song cũng về điều gì đó hầu như mang tính ký ức chủng loài, không khí mơ màng mênh mang và lâng lâng này là điển hình trong toàn tác phẩm.

Ở đây là một tài năng dạn dày không để bị cương tỏa, căng buồm lướt giữa sự tinh xảo của tính-tiền-phong và sự hồn nhiên của trí tưởng tượng mang mỹ cảm nguyên sơ, giữa kiểu trí tuệ đã kiến tạo những bộ bestarium thời Trung Cổ và trực-cảm-tiền-ký-tự mà xưa kia được người-săn-bắn-hái-lượm nghê nga xướng lên khi nguyện cầu. Nếu tính cách anh bạn Palomar đôi khi bị ám ảnh bởi cái bóng hờn gắt của Molloy trong vở kịch của Samuel Beckett, cố gắng vạch ra một phương pháp bất khả sai lầm trong việc luân chuyển những viên sỏi mút từ-túi-lên-miệng-từ-miệng-xuống-túi, và ở những lúc khác, bởi một Jorge Luis Borges tao nhân, nhỏ nhẹ giãi bày vấn đề liệu sự viết được tiến hành bởi “Borges” hay bởi “Tôi”, người đọc không bận tâm. Calvino cũng thế. Ông biết rằng, gì thì gì, cuối cùng, tất cả mọi người rốt cuộc đều bận tâm về cùng một điều.

Anh bạn Palomar bận tâm và ngắm nhìn không ngừng và bằng tiếng Ý; song William Weaver đã thuyết phục tôi rằng, giờ thì tôi biết cái tâm trí tỉ mẩn, sẵn lòng mê đắm, và ray rứt khôn nguôi một cách đáng yêu của đương sự qua tiếng Anh. Nhịp điệu và hương vị ngôn ngữ của Weaver có khả năng truyền tải cũng tài tình như thế cái tính chính xác chi li trong những cuộc tìm kiếm trí tuệ, cái tính lễ độ, cái tính khuê tình trong những cơn mơ mòng của anh bạn Palomar. Đó là một ngôn ngữ đưa chúng ta hướng đến cái bến bờ mà anh bạn Palomar không ngừng khao khát - “một bước tiếp cận gần hơn với sự biết chân thực, vốn được dựa trên cuộc trải nghiệm hương vị, hình thành đồng thời bởi trí nhớ và trí tưởng tượng”

“Đằng sau mỗi loại pho mát,” anh trầm ngâm, “có một loài cỏ xanh một sắc xanh khác, dưới một bầu trời khác: cánh đồng cỏ đóng muối thủy triều vùng Normandie mỗi chiều; cánh đồng cỏ ngát mùi hương liệu trong nắng gió miền Nam; có những bầy gia súc khác nhau, mùa lạnh nuôi thả trong chuồng trại dưới đồng bằng, mùa ấm di chăn lên núi; có những quy trình biến chế bí truyền qua bao thế kỷ. Cửa tiệm này là một viện bảo tàng: anh bạn Palomar, khi ghé thăm, cảm thấy như mình đang ở viện bảo tàng Louvre, đằng sau mỗi hiện vật trưng bày là sự hiện diện của nền văn minh đã tạo ra hình sắc cho nó và đảm nhận hình sắc từ nó.”

Tuy nhiên, cho dù khêu gợi niềm vui sướng giác quan, sự viết giục giã cuộc suy tư triết học, anh bạn Palomar, người mang cái tên của một ống kính viễn vọng và đài thiên văn lừng danh, vừa là “Tôi” vừa là “mắt”1, “Một thế giới đang nhìn thế giới”, như tiêu đề của một trong những cuộc chiêm nghiệm của anh bạn Palomar, một dấu hỏi tác động một cách hồi tố lên độ tín cậy tự thân: “Chẳng phải bản thân anh cũng là một mẩu của thế giới đang nhìn một mẩu khác của thế giới hay sao? Hoặc giả, vì có một thế giới bên này và một thế giới bên kia cửa sổ, nên có lẽ cái tôi không gì khác hơn chính là khung cửa sổ qua đó thế giới nhìn thế giới. Để nhìn chính nó, thế giới cần cặp mắt (và cặp kính) của anh bạn Palomar.”

Điều mà, may thay, đưa chúng ta, anh bạn Palomar và Italo Calvino vượt lên trên sự bế tắc của chủ nghĩa duy ngã, sự ngờ vực ngôn ngữ, và lên trên những ngọn lửa “thử nghiệm” lạnh lùng. Có thể có một vấn đề tri kiến, song tâm thức chỉ trở nên sống động trong vấn đề này khi thống khổ trước những khát khao trải nghiệm liên miên không thể dập tắt vốn chỉ muốn bung vượt lên trên nhà ngục của cái ngã. Calvino có thể phân chia và xếp loại bộ ba bình diện: hình ảnh, văn hóa, và tư biện trong thế giới của anh bạn Palomar, có thể gợi dẫn, gắn nhãn, phân tích, đối chiếu thỏa lòng ông (và chúng ta), song bản thân anh bạn Palomar vẫn luôn hồn nhiên và mở lòng một cách kì diệu trước sự bề bộn của các giác quan. Bãi cỏ, bộ ngực, đoàn chim di trú, hành tinh, tắc kè, trăng chiều, tiếng huýt chim sáo, tiếng cạch cạch cặp rùa giao phối, màn sương mù kỉ niệm... tất cả những sự này và ngàn sự khác sẽ gìn giữ tâm trí trước cái bữa-tiệc-bóng-tối tối hậu trong nó. Anh bạn Palomar, rốt cuộc, có thể, như cuốn sách mang tên anh ta, quỵ ngã thành một tam đoạn luận, nhưng không phải trước khi anh ta đã vượt qua cái kết cuộc của chính mình bằng hết trào dâng sáng lòa này sang trào dâng sáng lòa kia. Nếu trong chuyến đi của cuốn sách, người ta thường cảm thấy bước chân không thể sai lầm của Calvi- no, đó chính là vì ông không phải là một nhà văn nhàn-tản. Như Robert Frost, toàn bộ mối quan ngại của ông là về chính mình trong tư cách một nghệ sĩ biểu diễn, nhưng trong khi Frost biểu diễn ở ngang tầm mắt, như đã là, trên dây thanh âm và sợi tơ lòng, thì Calvino, ở tầm dây cáp cao, trên những dòng suy tư căng ngang bên trên cái sân xiếc quốc tế mênh mông. Song những biểu diễn ở tầm dây cáp cao như thế chỉ cuốn hút chúng ta vì người nghệ sĩ trên thực tế đang chịu lực hấp dẫn và hồn nhiên trước mọi rủi ro. Một trọng lượng nhẹ có thể nhún-nhứ-nhào-lộn tương tự song không thể khêu gợi được cái nhìn chằm chằm cổ xưa, chân phương, há hốc hy vọng và kinh ngạc mà tất cả chúng ta vẫn còn muốn được tham dự. Điều ấn tượng nhất về Palomar là cảm giác chiếc lưới an toàn rốt cuộc cũng thu lại; những kỳ công đơn độc, mẫn nhuệ, diễm lệ của trí tưởng tượng được hoàn thành không để chói lòa khán giả mà để thách thức (soi rọi) điều mà nhà thơ Philip Larkin gọi là “sự trống rỗng (cái tính không) hóa giải/ Nằm ngay dưới mọi thứ ta làm.” 2

Vũ Ngọc Thăng dịch  
(TCSH376/06-2020)

-------------------
1. Trong tiếng Anh từ “eye” (mắt) đồng âm với từ “I” (tôi).
2. “the solving emptiness / That lies just under all we do.” (Heaney trích từ bài thơ Ambulances của Larkin)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Isaac Bashevis Singer (14/7/1904 - 24/7/1991) nhà văn Mỹ gốc Do Thái Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1978. Những sáng tác của ông chủ yếu viết bằng tiếng Yiddish (tiếng Đức cổ của người Do Thái).

  • Tổng thống thứ 44 của Mỹ có phong cách lãnh đạo đặc trưng, thu hút được hàng triệu người ủng hộ và khiến cả những đối thủ của ông cũng phải thán phục.

  • NGUYỄN QUỐC THẮNG 

    “Tất cả những gì tôi đã làm được đều là kết quả của sự cô đơn”1
                       (Kafka)
    “Hệ thống ám dụ của Kafka thực hiện chức năng của nó như những ký hiệu vô hạn chất vấn những ký hiệu khác”2
                       (Roland Barthes)

  • Paul Doumer là một chính khách người Pháp, sinh năm 1857. Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897-1902. Sau ông làm Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Ông bị một phần tử quá khích người Nga ám sát năm 1932. Cuốn hồi ký Xứ Đông Dương là cuốn sách viết riêng về giai đoạn ông ở Đông Dương.

  • A. GELMAN(*)

    Chúng ta là những người chứng kiến tình trạng lo ngại đang tăng lên của xã hội về khía cạnh đạo đức trong sinh hoạt của đảng ta.

  • LGT: Tiểu luận “Làm sao văn học khả hữu?” dưới đây là văn bản phê bình văn học đầu tiên của Maurice Blanchot được ra mắt vào năm 1941 trên Nhật báo tranh luận (Journal des débats).

  • Kể đến Noel năm nay, thế là tôi đã qua trọn 50 mùa Noel ở nước Đức, đất nước có truyền thống Noel lâu đời, nơi thành phố Munich, vốn có tên từ những nhà tu đạo Thiên Chúa “Mönche”, nơi có chợ Giáng sinh gọi là “Christkindelmarkt” truyền thống xa xưa (khoảng 400 năm trước), và cũng từ vùng này, bài thánh ca bất tuyệt “Stille Nacht” cất lên, vang vọng khắp trên địa cầu đã tròn 200 năm.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Đọc Cuộc đời yêu dấu của Alice Munro, Nguyễn Đức Tùng chuyển ngữ, NXB Trẻ, 2015).

  • TRẦN HUYỀN SÂM

    Vì sao phương Đông đã trở thành chủ đề trung tâm trong tiểu thuyết Pháp đương đại? Đó là nội dung bàn luận trong mùa trao giải văn học năm nay ở Paris.

  • L.T.S: "Cuộc đời của André Colin" là thể loại sân khấu "lưu động" một sự kết hợp của đối thoại, âm nhạc, đồ họa, trên sân khấu diễn ra đồng thời hình vẽ, tranh liên hoàn, tranh đèn chiếu và phim ảnh 16mm. Từ khi biên soạn (1987) kịch bản đã được diễn một trăm lần ở Paris và các tỉnh khác. Tác giả Anne Quesemand, thạc sĩ văn học cổ điển, là người biên kịch đồng thời là diễn viên cùng với Laurent Berman. Bà còn là tác giả của nhiều phim ngắn.

  • Châu Âu hẳn nhiên sẽ trở nên dễ bị tổn thương hơn trước các đe dọa và đòn tấn công của bọn khủng bố. Một số chính sách về nhập cư có thể sẽ thay đổi để thích nghi với tình hình mới.

  • VIỄN PHƯƠNG

    Lúc 13 giờ Thụy Điển (tức 18 giờ Việt Nam), ngày 8/10 tại Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển, tên của nhà văn Svetlana Alexievich đã được xướng lên dành cho giải Nobel văn chương.

  • Antoine Leiris đã mất đi người vợ Helene dấu yêu của mình trong vụ xả súng ở nhà hát Bataclan, Paris ngày 13/11. Con trai của họ, bé Melvil 17 tháng tuổi giờ đây đã mất đi người mẹ của mình.

  • MAURICE BLANCHOT

    Cuốn sách mà Jean Paulhan vừa dành cho văn chương và ngôn ngữ được đọc với một tâm thế khác thường.

  • Ngày 1-11-1988, họa sĩ Bửu Chỉ đến Paris. Ngày 30-4-1989, họa sĩ trở về nước. Trong thời gian ở Paris, Bửu Chỉ đã sáng tác nhiều tác phẩm mới và đã có hai cuộc triển lãm tranh thành công tốt đẹp: tại Nhà Việt Nam từ 1-2 đến 5-3-1989 với 21 bức tranh và tại UNESCO với 40 bức từ 3-4 đến 14-4-1989.

  • QUẾ HƯƠNG

    Tôi đến Mỹ 4 tháng, thăm con trai từng là nha sĩ, qua học lại, 41 tuổi mới chính thức vào trường đại học Mỹ, sống lần nửa đời sinh viên ở một đất nước có nền giáo dục hàng đầu thế giới.

  • NGUYỄN KHOA QUẢ

    Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại từ năm 1975 đến năm 1979, chưa đầy 4 năm, phía bắc Đặng Tiểu Bình - Trung Quốc đem quân đánh phá. Phía nam Khơ me đỏ Campuchia, bọn Pôn Pốt sang đánh phá các tỉnh Kiên Giang và Tây Ninh... Quân tình nguyện Việt Nam kết hợp với Mặt trận đoàn kết dân tộc Campuchia lật đổ chế độ Pôn Pốt năm 1979, giải phóng nhân dân thoát khỏi chế độ bạo tàn diệt chủng.

  • LTS: Cách đây chưa lâu, báo Bulledingue (BD) của phong trào sinh viên trong tổ chức Hội Người Việt Nam tại Pháp, có tổ chức phỏng vấn giáo sư Hoàng Xuân Hãn trên hàng loạt vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội. Nội dung trả lời của giáo sư có thể giúp độc giả Sông Hương một số dẫn liệu mới hoặc gợi mở những cuộc trao đổi tranh luận bổ ích. Vì vậy, với sự đồng ý của giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Sông Hương xin trích giới thiệu nội dung cuộc phỏng vấn này với độc giả.

  • Đoản văn này được George Orwell viết năm 1936 kể về khoảng thời gian ông làm việc như một nhân viên bán sách bán thời gian tại tiệm sách cũ Booklover’s Corner tọa lạc ngay góc phố Pond Street và South End Green, thành phố London, nước Anh. Hiện nay tiệm sách cũ Booklover’s Corner không còn nữa, thay vào đó là một nhà hàng pizza, tuy nhiên ở đó còn gắn một tấm biển ghi rằng “George Orwell, nhà văn (1903 - 1950) từng sống và làm việc trong một tiệm sách ngay vị trí này”.