Tranh làng Sình - nét văn hóa Việt

08:50 12/02/2015

Tranh làng Sình đã trở thành nhu cầu của đời sống văn hóa, là thành tố của mỹ thuật cổ truyền và hợp thành văn hóa truyền thống xứ Huế.

Bộ tranh Bát Âm được sáng tác dựa trên nét cổ xưa của Tranh làng Sình

Người Việt có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và nhân hòa các hiện tượng thiên nhiên. Nên cùng với tranh Tết, tranh thờ ra đời rất sớm. Tranh làng Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) thuộc về dòng tranh thờ. Nó đã trở thành nhu cầu của đời sống văn hóa, là thành tố của mỹ thuật cổ truyền và hợp thành văn hóa truyền thống xứ Huế.

Bộ tranh Bát Âm được sáng tác dựa trên nét cổ xưa của Tranh làng Sình

Ngày xưa không biết thế nào, mà nay, dù đã sang thế kỷ XXI, trong tâm thức dân gian xứ Huế vẫn tồn tại một niềm tin: con người sinh ra có bổn mạng. Bổn mạng của mỗi người là những vị thần phù hộ cho sức khỏe, công việc làm ăn, vận hạn... Ngay trong tháng Giêng, tháng Hai, người Huế thường tổ chức cúng đất, cúng sao, để nhằm giải hạn xấu, cầu điều lành. Tranh thờ làng Sình được mua về để cúng bái như thế.

Các gia đình làm tranh ở làng Sình ngày xưa tự làm tất cả các nguyên vật liệu, làm giấy, chế màu...

Họ làm thủ công, theo kỹ thuật gia truyền, nên muốn có những bức tranh như ý phải hết sức khó nhọc. Để có giấy in tranh, người dân làng Sình xuôi thuyền dọc phá Tam Giang về vùng cầu Hai - Láng Cô để cào điệp. Đây là loại sò có vỏ mỏng nhiều màu sắc. Cào về giã thành bột, rồi trộn với hồ.Sau đó phết hỗn hợp này hai lần lên giấy dó. Khi phơi khô, hỗn hợp sẽ tạo nên màu trắng thuần khiết của loại giấy làm tranh làng Sình. Thời hoàng kim, trong làng đâu đâu cũng nghe tiếng hò, tiếng chày giã điệp, 90% người dân trong làng theo nghề này, cũng chính vì thế mà nghề làm tranh dân gian làng Sình được gọi bằng cái tên nghề “Hồ Điệp”. Kỹ thuật làm giấy điệp ở làng Sình có lẽ cũng không khác gì kỹ thuật làm giấy tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) nổi tiếng ở miền Bắc.

Không gian trưng bày sáng tác của nghệ nhân Kỳ Hữu Phước

Theo lời nghệ nhân Kỳ Hữu Phước, thời hoàng kim, tranh làng Sình có hàng trăm bản khắc, mỗi bản có ý nghĩa khác nhau: tranh bếp - thờ Táo quân; tranh thờ tượng bà, tranh thờ tượng ông; ảnh “mạng” (tức là mệnh), còn gọi là ảnh nộm: ảnh con trai thì cầm bút, con gái thì cầm bông hoa, người chết mà từ 12 tuổi trở lên thì có thể cúng thứ ảnh không cầm bút hoặc cầm hoa nữa...; tranh con heo nái, ai mà muốn cầu cho chăn nuôi không bị dịch bệnh thì mua về để cúng chuồng; tranh hai đô vật thì liên quan đến hội vật làng Sình: các đô vật mua về để cúng cầu cho mình giành phần thắng trong cuộc đấu trên sới vật của làng; ngoài ra còn có cả tranh đồ gia dụng, khí dụng để cúng cho người chết.

Tranh Cúng , thay 1 năm 1 lần ở các Trang Ông Trang Bà

So sánh dòng tranh làng Sình với các dòng tranh dân gian khác sẽ thấy không lẫn vào đâu được. Nét vẽ và bố cục còn rất thô sơ, mộc mạc nhưng lại rất có hồn. Mới nhìn đã thấy bức tranh toát lên sự linh thiêng, uy nghiêm của tranh thờ cúng, không phải để thưởng ngoạn. Hiện nay, có khoảng 30 hộ gia đình ở làng Sình chuyên tâm làm nghề vẽ tranh kiếm sống. Nhưng vì thu nhập thấp, chỉ người già và phụ nữ làm. Trung bình mỗi ngày khá lắm cũng chỉ kiếm được khoảng 20.000 đồng/người nên lớp trẻ không ai muốn theo học nghề nữa.

Về Làng Sình những ngày cuối năm con Ngựa, ghé thăm nhà mệ Hậu, ông Địch những người làm tranh con vật ở đây. Mới thấy được cái khó khăn, nghèo khổ của những nghệ nhân già. Thu nhập thấp đã làm cho lớp con trẻ không còn mặn mà với nghề truyền thống của cha ông./.

Nét vẽ xưa
Màu vẽ bằng cây trâm, cây đung

Bản khắc tranh cúng làng Sình
Những bản khắc con vật như trâu bò heo
In giấy trên bản khắc trước khi tô màu
Bàn làm tranh con vật
Tranh con vật đã đóng gói
Nghệ nhân già bên tranh cúng Trang Ông Trang Bà
Phơi tranh trong nắng xuân
Bộ tranh Thời Vụ của nghệ nhân Kỳ Hữu Phước trên chất liệu dân gian, sự kết hợp độc đáo của hội họa với tranh truyền thống làng Sình
Theo CTV Lê Huy Hoàng Hải/VOV.VN
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Đề cao vai trò cũng như trách nhiệm của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội, lần đầu tiên tại Huế, cũng là lần đầu tiên ở nước ta, có một tổ chức giáo dục đã nêu rõ quan điểm, lập trường, bảo vệ quyền của người phụ nữ: trường Nữ Công học hội.

  • Ít người biết tượng “ông già Bến Ngự” Phan Bội Châu bên bờ sông Hương (Huế) lại có liên quan đến nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn.

  • Chiều ngày 19/10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Tạp chí Sông Hương tổ chức buổi giới thiệu hai cuốn sách “Em còn gì sau chiến tranh”  và “Biến cố 182010” của nhà văn Hà Khánh Linh.

  • Ngày kinh đô Huế thất thủ (5/7/1885), không những hàng vạn thần dân bị sát hại mà vô số cổ vật triều đình cũng bị cướp đi, kể cả ống đựng tăm xỉa răng.

  • Sau hơn 140 năm tồn tại, nhà Nguyễn đã để lại cả kho tàng cổ vật, làm nên phần hồn của di sản văn hóa Huế ngày nay.

  • Chuyên đề Phê bình Nữ quyền là một cố gắng của Ban biên tập nhằm giới thiệu những nét phác thảo ban đầu: “Người viết nữ, giới tính và trang giấy trắng” (Đoàn Huyến) đề cập Cái bẫy giới tính  - giới tính như một cái bẫy êm ái - đã làm hạn chế sức sáng tạo; vậy phải thoát khỏi cái bẫy đó như thế nào? Và có đủ cam đảm để tự “khánh thành mình” như một trang giấy trắng, mà ở đó cô đơn và tự do là những xung lực lạ kỳ để chủ thể sáng tạo có thể thăng hoa? “Những khúc quành của văn học nữ Việt Nam đương đại” (Đoàn Ánh Dương) dẫn dắt bạn đọc đi theo hành trình văn học nữ Việt Nam từ sau 1975 đến nay; xác định những khúc quành: từ sự quy chiếu của diễn ngôn dân tộc qua diễn ngôn dân sự đến diễn ngôn đặt nền tảng ở nhìn nhận về tính cá thể. 

  • Trong hành trình tìm kiếm và quảng bá những điểm đến hấp dẫn của Việt Nam, bằng những phương pháp so sánh, đối chiếu và bình chọn của các đơn vị du lịch, cộng đồng Kỷ lục gia Việt Nam, du khách trong cả nước. Vừa qua, Tổ chức kỷ lục Việt Nam đã công bố Top 45 điểm đến hấp dẫn nhất ở Việt Nam, trong đó Thừa Thiên Huế vinh dự có 6/45 điểm đến du lịch hấp dẫn được bình chọn.

  • Huế đã trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Ca Huế không chỉ phản ánh dòng chảy lịch sử, di sản này còn là quá trình tinh chế vốn văn hóa dân gian có nguồn gốc từ cội nguồn dân tộc Việt hỗn dung với văn hóa bản địa tạo nên một âm sắc Huế, rất riêng.

  • Với sự tham gia của ĐẶNG MẬU TỰU * LÊ VĂN LÂN * ĐINH CƯỜNG * PHẠM THỊ ANH NGA * LÊ HUỲNH LÂM * TÔN PHONG * MAI VĂN PHẤN * PHẠM ĐỨC MẠNH * HỒNG VINH * NGUYÊN NGỌC - TÔN NỮ MINH CHÂU * NGUYỄN XUÂN SANG * NGUYỄN ĐỨC TÙNG * ALICIA OSTRIKER * JEAN VALENTINE * TIM SUERMONDT * NHẬT CHIÊU * PHI TÂN * VÕ NGỌC LAN * PHƯƠNG ANH * NGUYỄN DƯ HOÀI MỤC * ĐỖ XUÂN CẨM * QUẾ HƯƠNG * NGUYỄN KHOA QUẢ * HOÀNG DIỆP LẠC * LÊ MINH PHONG * NGÔ ĐÌNH HẢI * NGÔ MINH
    Sông Hương số đặc biệt tháng 9/2105 trân trọng gửi đến quý bạn đọc.

  • Số báo này xuất bản cũng nhằm vào những ngày Liên hiệp Hội tổ chức chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm thành lập. Bài “70 năm, một dòng chảy văn học nghệ thuật nối tiếp văn mạch của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa sẽ điểm lại diễn trình 70 năm đáng tự hào của văn nghệ xứ Huế. 

  • Hiếm có làng nào lại quy định rõ ràng về việc dọn thức ăn trong ma chay như làng Mỹ Phú (xã Phong Chương, H.Phong Điền, Thừa Thiên-Huế).

  • Ở không ít làng quê xứ Huế ngày nay, lệ làng vẫn tồn tại với nhiều quy định khắt khe, chặt chẽ.

  • Tháng 8 năm này, kỷ niệm 95 năm ngày sinh của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị (18/8/1920). Một bài viết trong số này, đã nhắc lại “cuộc hóa thân của đất đá” trong sự nghiệp lừng lẫy của bà. Các truyện ngắn được chọn đăng, vừa có những thử nghiệm bút pháp mới, vừa sâu thẳm tính nhân văn; và một lần nữa, trách nhiệm cụ thể của nhà văn được khơi mở: Làm sao vừa có những sáng tạo đầy bứt phá về nghệ thuật, vừa có thể gắn chặt với thực tại? Làm sao để những biến ảo kỳ diệu của tâm thức đời sống, của tiềm thức con người, của “cái bóng” đa nhân cách cuộc đời không dễ nắm bắt… có thể đi vào văn học nghệ thuật? Tất cả lại là những vấn đề muôn thuở của văn học

  • Chùa Từ Hiếu hay còn gọi là chùa “Thái giám” nằm trên ngọn núi Dương Xuân thuộc phường Thuỷ Xuân (TP.Huế). Đây là địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của Huế, nhưng ít người biết được nguồn gốc đầy nước mắt của ngôi cổ tự này. Nơi đây có một nghĩa trang của những con người mang thân phận không phải đàn ông mà cũng chẳng phải đàn bà...

  • Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng Thành – Kinh Thành Huế, cũng được coi là bộ mặt của Hoàng Thành và vương triều phong kiến.

  • Hệ thống thơ văn trên di tích Huế có một phần rất lớn là Ngự chế thi của vua Minh Mạng, trong đó, đặc biệt tại Hiếu Lăng (lăng vua Minh Mạng) là nơi có nhiều thơ của nhà vua được chạm khắc, trang trí để lưu truyền cho hậu thế.

  • Từ ngày 17 đến 23 tháng 7 năm 2015, trại sáng tác văn học Phong Điền năm 2015 đã diễn ra tại vùng Ngũ Điền do Hội nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND huyện Phong Điền tổ chức.

  • Câu chuyện này lại có liên quan đến một sự kiện diễn ra cách nay đúng một 150 năm, đó là câu chuyện sứ đoàn đầu tiên của nước ta sang Pháp (1863 - 1864)...

  • Trên các đền đài, lăng tẩm, cung điện triều Nguyễn tại cố đô Huế xuất hiện hàng ngàn bài thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán. Hệ thống di sản tư liệu độc đáo này vừa được giải mã để đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới.

  • Chỉ cần nhìn làn da bất chấp tuổi tác của những người phụ nữ trong gia đình này, bạn sẽ thấy bí quyết làm đẹp từ hoàng cung mà họ được truyền lại qua mấy đời thực sự diệu kỳ đến thế nào. Đó là bí mật để làm ra những viên phấn nụ, dưới công thức của các ngự y triều Nguyễn, chỉ dành cho những giai nhân ở chốn cấm cung.