Bùi Nguyên - Ngô Công Tấn - Ngàn Thương - Nguyễn Hới Thọ - Lãng Hiển Xuân - Đặng Văn Sử
Minh họa: Nhím
Mỗi vùng đất các nhà văn nhà thơ đặt chân đến đều để lại dấu ấn đặc biệt. Trại sáng tác văn học Hồng Hạ (A Lưới) do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức vào giữa tháng 7/2016 đã đánh thức những vỉa tầng văn hóa tinh khôi, những mảng màu huyền nhiệm, và nơi đây sẽ còn là mảnh đất lành cho hạt sáng tạo nẩy mầm về sau. Sông Hương trân trọng gửi đến độc giả truyện ngắn Cột đá thiêng và chùm thơ còn nóng hổi từ trại viết này.
BÙI NGUYÊN
Lời nguyện bên cột đá thiêng
Chạm tay lên cột đá thiêng
Mơ hồn nước cuộn truân chuyên về trời
Tà Lương núi dựng chơi vơi
Chiếc gùi định mệnh buông lơi vai trần
Tiếng ca sơn nữ bần thần
Tìm trong huyền thoại mấy lần hoài sinh
Dấu chân giao chỉ điêu linh
Hồng hoang chim lạc bình minh bay về
Mây dồn chín tím sơn khê
Chiều câu kinh nguyện dầm dề cơn giông
Mang nhiên rừng rú quay vòng
Thanh âm thác suối bềnh bồng qua truông
Ngón tay thả lỏng hoàng hôn
Vô tình hơi thở ẩn ngôn linh thần
Núi rừng mưa trút trắng ngần
Mặt người nhòe nhoẹt xoay vần u uyên
Làn môi thượng nữ chung chiêng
Rụng rơi câu nguyện giữa miền quạnh không
Váy hoa nối áng cầu vồng
Suối khe bừng trổ một dòng nguyên hương
NGÔ CÔNG TẤN
Mẹ Hồng Hạ và biển xa
Lưng gầy bạc phếch cánh rừng
Rớt từng sợi tóc lưng trần đồi nương
Đá Thiêng ai dựng đầu nguồn
Để chiều Hồng Hạ vái buồn lên non.
Mẹ già cùi trĩu lưng còm
Pi Lo lõm dưới má hom hóp chiều
Lá khô rục rã tiếng yêu
Hong chi kịp nỗi tiêu điều hoang vu.
Sáng chạm phải dốc sương mù
Bao khao khát biển nghìn thu xa dần.
Nhìn theo dòng suối tần ngần
Mở ra nhắm lại, bao lần tim đau.
NGÀN THƯƠNG
Cảm xúc Pârle
Pârle, con suối hiền hòa
Chênh vênh vách núi ngân nga cung đàn
Âm thanh dìu dặt nhẹ ngân
Trung du xanh thắm mơ màng gọi tên
Mùa này A Lưới mông mênh
Mưa nguồn xuôi tiễn chiều lên vào hồn
Tình dân dã quyện trong sương
Nụ cười tươi thắm em tròn tuổi xuân
Vốc từng ngụm nước bâng khuâng
Cá tung tăng đớp mây ngàn lãng du
Cánh chuồn bay lượn vào thu
Nằm bên suối ngỡ tuyệt mù nhân gian…
NGUYỄN HỚI THỌ
Tối ở trên nhà sàn
Tối ở trên nhà sàn
Hơi mưa chiều dịu mát
Ánh chớp soi rõ mặt
Em gái người Tà Ôi
Có gì đó trong tôi
Như nỗi niềm - Hồng Hạ
Thương bạn tôi nằm lại
Dưới chân đèo Kim Quy
Ơi người mẹ Pa Hy
Gùi trên lưng đất nước
Lịch sử còn khắc ghi
Người Kơ Tu đánh giặc
Đêm nhà sàn em hát
Múa điệu múa Pa Kô
Bập bung cồng chiêng gọi
Tình yêu tôi thành thơ
Ơi nỗi niềm Hồng Hạ
Suối Pârle mát lành
Cho tôi thành giọt nước
Nuôi hồn em ngát xanh
Hồng Hạ, 17/7/2016
LÃNG HIỂN XUÂN
Em và suối Pârle
Những hòn đá cuội đuổi nhau xuôi về cuối núi
Nước cũng chạy theo
Loang loáng thân phận những con người
Cuồn cuộn theo từng bọt nước...
Ta cũng đuổi theo những gâm gấp bước chân em
Cơn mưa rừng chợt nhiên chặn lại
Núi rừng vẫn an nhiên đồng lõa
Hụt hơi ta trước hùng vĩ của cuộc tình.
Bờ sát bờ mà sao em và ta nhòe bóng
Tiếng suối reo khắc khoải róc rách một niềm yêu
Những phiến đá vô tri đành chịu oằn mình rêu mốc
Và nước...
cứ miệt mài chảy về phía bình yên.
Pârle, Pârle...
Những chỉ dấu xưa giờ đã trở thành quá khứ
Mặc lũ côn trùng chim chóc nhắc nhở ngày đêm
Vết khắc hằn lên đá
Cũng không thể nào giải mã nổi thời gian.
Chỉ còn ta và em
trong tiếng giao hòa tinh khiết
Mạch nguồn nào
xuôi về phía bình yên?
Suối Pârle 17/07/2016
ĐẶNG VĂN SỬ
Vỡ núi mị yêu
Váy diễm viền
mộng mùa sơn cước
em như hoa
rót mật hương ngàn...
Lân ý tưởng
linh lời thung gió
dốc nhô trăng
bản nhuốm hoặc huyền...
Những hốt tưởng
khảm niềm, men lửa
nồng nàn môi
trăm bật bên người...
Nhưng trở lại
rừng đồi sương đẵm
dốc triền thương
u uẩn, tàn, im...
Cậy mạch suối
cội nguồn níu giữ
cũng kiệt cùng
vỡ núi... mị yêu.
(TCSH330/08-2016)
>> Cột đá thiêng - NGUYÊN QUÂN
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.