Là tác giả bốn cuốn sách viết về Việt
Thi hào Bulgaria Blaga Dimitrova (1922-2003) - Ảnh: internet
...Cố tránh xa những gì là quá đa cảm, thơ Blaga Dimitrova hướng tìm đến một nữ tính mới, một nữ tính của thế kỷ chúng ta. Nhân vật trữ tình trong thơ Blaga luôn ý thức được về sự tồn tại của bản thân, về sự phức tạp của thế giới ngày hôm nay, hiểu rõ những đau đớn cũng như những hạnh phúc khi chia sẻ số phận với nó. Chính ý thức về một nữ tính mới mẻ này đã khiến cho nhà thơ chịu không ít phiền phức khi cho in những sáng tác của mình. Trong nhiều năm, nữ thi sĩ đã phải trả giá cho lòng dũng cảm và sự trung thực của chính mình.
Mượn một so sánh của Hainơ, có thể nói: Thơ Blaga Dimitrova là sự rớm máu trong tâm hồn...
NGƯỜI DỊCH
Tuần lễ mù
Bắt đầu mùa cưới
người ta còn gọi là tuần lễ mù
Tôi còn mang cho tận cuối đời mình
cái vết chàm thay cho khâu nhẫn cưới
Bao vị hôn thê tự hào những chiếc khâu chứng lý
rồi vứt liệng đi thay chúng vội vàng
Vẫn những vật kim hoàn
biểu tượng sự trung thành đến chết
Tôi cố thử, nhiều lần, và vô ích
tháo ra, đổi thay, gửi những kẻ tráo trưng
Nhưng vết chàm kia, lời thề cưới của mình
vẫn bám chặt trên ngón tay nguyền rủa
Với bột tẩy tốt nhất, bao lần tôi cọ rửa
chà xát bao lần bằng cát bằng tro
Nhưng khi người tôi yêu cầm lấy tay tôi
nỗi hổ thẹn vết chàm vẫn không giấu được
Không một ngón tay óng muốt nào xứng hợp
bên viên xaphia kinh khủng của tôi
Không cách nào tẩy được khỏi ngón tay
cái vết chàm đã đóng vào vĩnh viễn
Trên đốt tay bị xát chà đau đớn
Chữ nghĩa viết ra như một cực hình
Mãi mãi vết chàm
còn theo trọn kiếp
Thậm chí đến ngón tay cứng đờ lúc chết
cũng không sao có thể tháo ra
Và mọc lên từ đất mộ tôi
bông hoa nhỏ màu chàm kinh sợ
Hoang mạc
Tôi sinh ra chỉ mong được mến yêu
Tôi đã học thế nào lòng yêu mến
Song đã trôi đi là cuộc sống
hầu như... không hề biết tình yêu
Tôi đã bỏ qua đã tha thứ bao nhiêu
hầu như không một lời trách móc
Nơi hoang mạc trần trụi này
tôi đang đi
tôi chỉ hỏi
bằng cái nhìn kinh ngạc:
- Con người được sinh ra
dành cho những khoảng xanh mát nào trên mặt đất?
Trích liên khúc nhà
Một nhúm tro - cho mỗi người
những ai yêu mến tôi
Tựa như tôi vẫn ủ lò bằng tro
than vẫn nóng
Chúng không tàn đi trước cuộc gặp ta đã hẹn
trong bóng tối là mắt các anh
Tôi không sống ở nơi nào nhất định
thật tuyệt vời và thật đáng mong
Một nhúm tro để ghi nhớ
thay cho những lời tôi giấu lặng câm
Tất cả lạnh lẽo hơn tất cả hoang vắng hơn
ở đây không còn giữ hơi thở nào ấm áp
Rồi về xa, tất cả các anh, những người yêu tha thiết
bằng một tình yêu chân thành
Một nhúm tro - trong lòng bàn tay anh
ấm nóng và đầy lượng thứ
Những cánh chim trời - trước khi bay
đến đậu trên vai tôi cũng đều run lên như thế
THANH HIỀN dịch
(TCSH49/05&6-1992)
L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.
OCTAVIO PAZ
(Nobel Văn Chương 1990)
Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).
Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp
LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.
Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans
F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.
Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.
FREDERICK TURNER
FREDERICK FEIRSTEIN
Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.
Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.
L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.
L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.
Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.
Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.
PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính
LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)