Trận đánh trong đêm nhớ Bác

14:51 03/09/2008
ĐỖ KIM CUÔNG Ấn tượng dai dẳng trong tôi mỗi khi nhớ về Huế vẫn là những trận mưa rả rích kéo dài lê thê hết ngày này sang ngày khác. Mưa có khi cả tháng trời. Mưa ngày rồi lại mưa đêm. Có lúc những cơn mưa rào kéo sầm sập như thác đổ. Lúc mưa nổi bong bóng nước. Mưa rừng càng buồn nản hơn.

Chiều hôm trước con suối trước cửa hầm mới chỉ lưng ống chân, trông rõ từng đàn cá thia lia lượn lờ quanh những tảng đá phủ rêu trơn nhẫy. Chỉ một đêm mưa, con suối nhỏ đã trở thành một dòng sông hung hãn. Người ở bờ suối bên này không sang được bờ bên kia mang rá cơm về ăn. Những hốc đá gồ ghề ngày thường có thể nhảy từ hòn nọ sang hòn kia cho đỡ ướt tất, nước từ trên nguồn đổ về, từ trời rơi xuống, từ đất ứa ra đám đá vô tri vô giác biến thành một thác nước lớn.
Mùa mưa năm 1973 ở Huế, nước sông Bồ dâng cao nhấn chìm hàng trăm các chốt hoà hợp của cả quân ta lẫn quân ngụy. Những anh lính bộ binh giữ chốt ở Cồn Nổi phải làm bè, treo lên cây mít tránh lụt. Nước lút ngọn tre làng Hiền Sĩ, Thanh Tân. Nước lôi cả một trung đội lính thủy quân lục chiến của ngụy vào lúc nửa đêm không kịp tháo thân lên thuyền cao su. Đám lính chết chìm trôi theo dòng nước về cửa biển Thuận An. Đứng trên ngọn mít cao chót vót, tôi còn nhìn rõ cả xác một con nai chết trương bụng, nổi phập phềnh trên mặt sông Bồ cuộn sóng. Hàng đàn quạ đen đậu trên những thân cây to bị đánh bật gốc băng băng trong dòng nước lạnh buốt. Thỉnh thoảng, lũ quạ bay lên rỉa xác con nai...
Mùa mưa năm 1970. Đồng bằng Huế lại lụt. Chúng tôi lọt về ấp giữa đêm trăng, đi kiếm gạo. Mưa lụt, đám bảo an dân vệ chạy hết lên đường quốc lộ, chốt từng đoạn. Bộ đội, du kích về được ấp Phú Ổ, Liễu Thượng mua được rất nhiều gạo, đậu phộng, dầu đậu nành, muối, bột ngọt. Lúc đi còn qua được cây cầu tre ở ấp Liễu , lúc về con hói đã chìm lấp giữa một đồng nước mênh mông cao ngang bụng. Đám lính ngụy của Trung đoàn 54, Sư 1 bộ binh chốt trên các dãy đồi cao, biết có bộ đội về làng nhưng cũng chẳng làm được gì hơn là gọi pháo bắn hú hoạ và thả pháo sáng lên trời.
Còn mùa mưa năm 1969? Năm ấy mưa đến sớm. Chưa tới rằm tháng bảy, những trận mưa đầu hạ đã đổ trắng núi, trắng rừng. Lại thêm cái đói hành hạ. Các kho lương thực bí mật ở vùng giáp ranh đều cạn kiệt. Đồng bằng không về được. Các cửa rừng đều bị địch chốt giữ. Hàng chục ngày trời bộ đội, trinh sát biệt động, an ninh vũ trang liên tục bám dốc Đu, dốc Cát, khe Ồ Ồ, Động Ngang nhưng cứ tới chập tối đành ôm súng trở về, mặt buồn rượi. Địch chốt dầy đặc, lớp trong lớp ngoài. Xe tăng xe bọc thép trở thành những lô cốt di động chốt giữ con đường chiến lược sát chân núi.
Các trung đoàn chủ lực của sư đoàn 324 đã được lệnh rút lên đường tuyến đánh Mỹ chống càn. Ở vùng giáp ranh Hương Trà, Hương Thủy chỉ còn lại lính của công trường 5 của "tướng" Thân Trọng Một. Ông Một mới chỉ ở cấp Trung đoàn trưởng, nhưng người dân vùng ven phục tai đánh giặc của ông, yêu quý ông mà gọi như vậy. K.10 chốt giữ vùng giáp ranh Hương Trà. Trận đói đã kéo dài ngày. Tiêu chuẩn gạo mỗi ngày chỉ một lạng. Gạo đem nấu cháo với môn vót, với củ chuối rừng, với dọc môn ngứa ở khe Điên. Cháo nấu với cua với cá, với bất kỳ con gì bắt được trong rừng đều trở thành nguồn nuôi sống cho bộ đội, du kích trong cơn đói khát. Mỗi lần Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Duy xuống đại đội tôi, gặp cán bộ chiến sĩ ông đều thông báo tình hình chiến sự. Khi giao nhiệm vụ cho đại đội bao giờ ông cũng gài một câu kết luận: "Các đồng chí ạ! chúng ta đang khó khăn. Nhưng dù khó khăn tới đâu, mỗi người lính K.10 có phải thành vượn, thành duộc, chúng ta cũng kiên quyết trụ bám giữ vững vùng giáp ranh, lấy chỗ đứng chân cho trung đoàn. Đại đội ba phải tìm cách đánh địch, bám dân, phải nổ súng để tụi ngụy hiểu rằng K.10 vẫn tồn tại..."
Tôi nghe kể chính trị viên Duy trước đây đã từng giảng dậy ở trường sĩ quan lục quân. Vào năm 1967 ông Duy đưa quân đi và ở lại chiến trường. Ông Duy gốc người Thanh Hoá, hàm răng nhỏ sít, ám khói thuốc lào, có giọng nói nghiêm và đanh. Ông ăn nói giỏi, được lòng anh em chiến sĩ K.10. Ông mới 38 tuổi nhưng so với đám lính học trò mới bước sang tuổi 18 như chúng tôi, ông đáng mặt là thủ trưởng. Khi ông Duy nói chuyện hay họp hành, chẳng mấy khi tôi thấy ông rời khỏi cái tai nghe gắn chặt vào chiếc đài Nationa ba pin đại.
Vào những ngày trung tuần tháng 8 nhiều đêm tôi đi theo anh Để - đại đội trưởng, có hôm đi với anh Hồng - Chính trị viên đội về bám địch, nghiên cứu chi khu Hương Trà. Ông Bậu - tiểu đoàn trưởng lại cùng với đám trinh sát, an ninh của huyện nắm địch ở một hướng khác. Họ đi đâu, làm gì, gặp ai, chúng tôi không rõ. Buổi chiều cùng gặp nhau ở cửa rừng rồi mỗi toán đi theo một ngả khác nhau về đồng bằng. Gần sáng ông Bậu và đám trinh sát mới về, quần áo dính đầy bùn đất, mặt mũi họ bôi đen trông như lính đặc công.
Sau những đêm về được đồng bằng, gặp được dân bộ đội và cán bộ du kích huyện xã mua được gạo, thực phẩm. Ít ngày sau, chúng tôi lại nhận được gạo và đạn dược từ ngoài đường tuyến chuyển về qua đường vận tải sông Bồ. Những trái đạn cối 82, B 40, B 41 còn mới.
Chiều ngày 2/9/1969 chúng tôi mới được Ban chỉ huy tiểu đoàn thông báo đêm nay, tiểu đoàn tổ chức đánh tập kích bằng hoả lực vào cứ Tứ Hạ. Đây là một trận địa pháo 105 ly của ngụy, có sân bay trực thăng dã chiến, có xe tăng và các đơn vị bộ binh chốt giữ bảo vệ căn cứ. Từ 4 giờ chiều hàng trăm những người lính K.10 cùng với bộ đội địa phương của huyện, du kích các xã đã được lệnh tập trung, phân công gùi đạn theo các mũi, các hướng. Hành quân đi bộ, mang trên vai 30-40kg đạn cối và hoả lực, chúng tôi ra được tới gần cửa rừng thì nhận được tin báo: địch chốt chặn cửa rừng và Trung đoàn 54 ngụy đang triển khai dọc theo quốc lộ, để phòng bộ đội ta về đánh đồng bằng, mừng ngày kỷ niệm Quốc khánh. Mọi người đành phải cõng súng đạn trở về hậu cứ.
Ngày 3/9/1969, trời đổ mưa tầm tã từ sáng tới trưa, buổi chiều trời hửng nắng. Đồng bằng Huế nhiều vùng ngập trắng nước. Trinh sát bám địch bão về, địch đã rút lên các điểm cao tránh mưa bão. Ban chỉ huy tiểu đoàn 10, vẫn quyết định đêm nay tổ chức trận đánh về căn cứ Tứ Hạ.
Cho đến 7h tối bốn đại đội của tiểu đoàn đã áp sát vào chân các hàng rào vây quanh căn cứ Tứ Hạ. Bộ đội đã chặt sẵn những cây nạng để gá súng B40, B41. Hai khẩu cối 82 đặt trận địa tại một khu mộ, chỉ cách căn cứ địch chưa tới 300m. Bằng mắt thường chúng tôi cũng nhìn thấy rõ những nòng pháo 105ly của địch được ngụy trang sơ sài, sau dãy hàng rào kẽm gai. Dãy nhà tôn lấp loá ánh điện nơi ở của tụi lính và sỹ quan ngụy. Vọng lại tiếng nhạc sập sình trong quán ba. Cứ quãng 15 phút, lính từ các chòi canh lại bắn lên trời từng quả pháo sáng. Ánh sáng mờ nhạt nhìn rõ từng vòng dây thép gai bùng nhùng chỉ cách chỗ tôi đặt khẩu B4 chưa đầy 5m. Tụi lính gác căn cứ hầu như không hề biết sấm sét sắp nổ trên đầu chúng. Trước lúc xuất quân thủ trưởng Duy đã đi tới từng đại đội căn dặn "Trận đánh đêm nay kỷ niệm mừng ngày Quốc khánh nước ta... Các đồng chí phải nhớ..." Những người lính lúc ấy còn đang bận mải thắt lại dây cùi, dây súng nên không nghe hết lời dặn dò của ông Duy.
22h, hai khẩu cối 82 và 4 khẩu cối 60 phát hoả. Lửa chớp sáng trong căn cứ Tứ Hạ. 14 khẩu B41 và 10 khẩu B40, cơ số đạn mỗi khẩu hoả lực là 8 trái như một dàn tên lửa hoả tiễn đồng loạt bắn vào các ụ súng, ụ pháo, lô cốt của địch. Chỉ sau loạt đạn đầu tiên, căn cứ pháo binh của địch bị bốc cháy. Lửa sáng rực cả một vùng. Trận địa pháo của địch ở Tứ Hạ hầu như câm lặng. Vẳng lên tiếng la hét của đám lính ngụy trúng đạn, bị thương. Một chiếc trực thăng của địch đã bén lửa, cố gắng trốn chạy nhưng không cất cánh nổi đã bốc cháy có nhiều tiếng nổ phát ra từ trong căn cứ.
Trận đánh tập kích bằng hỏa lực diễn ra không đầy 30 phút. Khi toàn bộ đội hình của tiểu đoàn rút lên tới điểm kết, địch ở Huế mới kịp phản ứng. Chúng cho trực thăng chiến đấu lên bắn chặn xung quanh căn cứ. Máy bay OV10 bay lên thả pháo sáng... Pháo địch ở Văn Thánh bắn chặn cửa rừng. Sau này tôi mới được biết, trận đánh tập kích vào căn cứ Tứ Hạ của bộ đội K.10 đã tiêu diệt phần lớn các khẩu pháo, lô cốt, các cụm hỏa lực của địch. Máy bay trực thăng và xe tăng của địch cũng trúng đạn. Các dãy nhà trong căn cứ bị phá sập.
Vào lúc 4h sáng ngày 4/9, bộ đội, cán bộ huyện xã, du kích còn đang ngồi ăn cơm, chờ trời sáng để vào rừng, thì Chính trị viên Duy đã bước lên một thành mộ cao, giọng ông nghẹn ngào: "Thưa các đồng chí, được sự nhất trí của các đồng chí trong huyện ủy, huyện đội Hương Trà, tôi xin thông báo với các đồng chí một tin đau đớn vào lúc 9h45' sáng hôm qua Bác Hồ của chúng ta đã vĩnh viễn ra đi".
Rồi ông Duy khóc. Nhiều chị, nhiều o cũng khóc. Nhiều đồng chí lãnh đạo của huyện như ông Sáu Thọ, ông Trình đã tham gia cách mạng tự kháng chiến chống Pháp. Có người đã đi tập kết, may mắn được gặp Bác Hồ. Từ những năm "sáu mươi" các ông đã trở lại quê hương chiến đấu, nghe tin Bác mất xúc động không nói nên lời.

Tôi xa mảnh đất Hương Trà, xa Huế tới nay đã gần 30 năm. Tiểu đoàn 10 của tôi sau ngày giải phóng Miền đã bị xoá phiên hiệu. Ông Thân Trọng Một, Trung đoàn trưởng ngày xưa đã mất. Tiểu đoàn trưởng Bậu về nghỉ dưỡng tuổi già ở quê nhà... Không còn một người kính K.10 nào kịp ghi vào cuốn biên niên sử của tiểu đoàn trận đánh vào căn cứ Tứ Hạ, đúng vào ngày Bác Hồ ra đi.
Và cũng trôi vào quên lãng quá khứ hào hùng của một tiểu đoàn bộ binh đã từng nhiều phen làm cho địch hoảng loạn trong những trận đánh chống càn ở Phú Vang, Hương Thuỷ, Quảng Điền, Phong Điền. Những đêm vượt phá Tam Giang phá vây ở Cao Ban, Sơn Tùng, dấu mình trên bãi cát Triều Dương về đánh giải phóng Huế. Lớp lớp những người lính K.10 đã ngã xuống vùng ven đô Huế..."
Một lần tôi dừng xe ở Tứ Hạ. Vùng căn cứ cũ của ngụy nay đã là thị trấn Huyện Hương Trà. Không còn lại dấu tích của những hàng rào dây thép gai, lô cốt. Tứ Hạ đã trở thành một thị trấn của thời kỳ đổi mới. Các nhà máy xưởng chế biến, nhà cửa của dân mọc lên san sát. Thấp thoáng bóng nhà cao 2 - 3 tầng ngói đỏ, xen kẽ với những ngôi nhà mới xây.
Sầm sập từng đoàn xe tải, xe khách tàu hoả chạy ngang qua cầu Hiền Sĩ. Rập rình tiếng nhạc trong các quán càphê, karaoke... những dải làng hoang của các thôn Văn Xá, An Đôn, Liễu Nam, Liễu Thượng, Thanh Tân, Sơn Quả... dân đã trở về đông đúc.
Tôi bỗng nhớ tới ông Duy, anh Ngạn, anh Để, anh Hồng, anh Phong, anh Đại... những người chỉ huy cũ của tiểu đoàn 10. Sau những năm chiến tranh, các anh như tan biến đi giữa biển người, giữa cuộc sống lam lũ tất bật đời thường. Nhưng tôi không quên. Bởi chính các anh là người thầy dạy đầu tiên cho tôi trong cuộc đời người lính.
Hà Nội 7/2002
Đ.K.C
(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…