Trận đánh trong đêm nhớ Bác

14:51 03/09/2008
ĐỖ KIM CUÔNG Ấn tượng dai dẳng trong tôi mỗi khi nhớ về Huế vẫn là những trận mưa rả rích kéo dài lê thê hết ngày này sang ngày khác. Mưa có khi cả tháng trời. Mưa ngày rồi lại mưa đêm. Có lúc những cơn mưa rào kéo sầm sập như thác đổ. Lúc mưa nổi bong bóng nước. Mưa rừng càng buồn nản hơn.

Chiều hôm trước con suối trước cửa hầm mới chỉ lưng ống chân, trông rõ từng đàn cá thia lia lượn lờ quanh những tảng đá phủ rêu trơn nhẫy. Chỉ một đêm mưa, con suối nhỏ đã trở thành một dòng sông hung hãn. Người ở bờ suối bên này không sang được bờ bên kia mang rá cơm về ăn. Những hốc đá gồ ghề ngày thường có thể nhảy từ hòn nọ sang hòn kia cho đỡ ướt tất, nước từ trên nguồn đổ về, từ trời rơi xuống, từ đất ứa ra đám đá vô tri vô giác biến thành một thác nước lớn.
Mùa mưa năm 1973 ở Huế, nước sông Bồ dâng cao nhấn chìm hàng trăm các chốt hoà hợp của cả quân ta lẫn quân ngụy. Những anh lính bộ binh giữ chốt ở Cồn Nổi phải làm bè, treo lên cây mít tránh lụt. Nước lút ngọn tre làng Hiền Sĩ, Thanh Tân. Nước lôi cả một trung đội lính thủy quân lục chiến của ngụy vào lúc nửa đêm không kịp tháo thân lên thuyền cao su. Đám lính chết chìm trôi theo dòng nước về cửa biển Thuận An. Đứng trên ngọn mít cao chót vót, tôi còn nhìn rõ cả xác một con nai chết trương bụng, nổi phập phềnh trên mặt sông Bồ cuộn sóng. Hàng đàn quạ đen đậu trên những thân cây to bị đánh bật gốc băng băng trong dòng nước lạnh buốt. Thỉnh thoảng, lũ quạ bay lên rỉa xác con nai...
Mùa mưa năm 1970. Đồng bằng Huế lại lụt. Chúng tôi lọt về ấp giữa đêm trăng, đi kiếm gạo. Mưa lụt, đám bảo an dân vệ chạy hết lên đường quốc lộ, chốt từng đoạn. Bộ đội, du kích về được ấp Phú Ổ, Liễu Thượng mua được rất nhiều gạo, đậu phộng, dầu đậu nành, muối, bột ngọt. Lúc đi còn qua được cây cầu tre ở ấp Liễu , lúc về con hói đã chìm lấp giữa một đồng nước mênh mông cao ngang bụng. Đám lính ngụy của Trung đoàn 54, Sư 1 bộ binh chốt trên các dãy đồi cao, biết có bộ đội về làng nhưng cũng chẳng làm được gì hơn là gọi pháo bắn hú hoạ và thả pháo sáng lên trời.
Còn mùa mưa năm 1969? Năm ấy mưa đến sớm. Chưa tới rằm tháng bảy, những trận mưa đầu hạ đã đổ trắng núi, trắng rừng. Lại thêm cái đói hành hạ. Các kho lương thực bí mật ở vùng giáp ranh đều cạn kiệt. Đồng bằng không về được. Các cửa rừng đều bị địch chốt giữ. Hàng chục ngày trời bộ đội, trinh sát biệt động, an ninh vũ trang liên tục bám dốc Đu, dốc Cát, khe Ồ Ồ, Động Ngang nhưng cứ tới chập tối đành ôm súng trở về, mặt buồn rượi. Địch chốt dầy đặc, lớp trong lớp ngoài. Xe tăng xe bọc thép trở thành những lô cốt di động chốt giữ con đường chiến lược sát chân núi.
Các trung đoàn chủ lực của sư đoàn 324 đã được lệnh rút lên đường tuyến đánh Mỹ chống càn. Ở vùng giáp ranh Hương Trà, Hương Thủy chỉ còn lại lính của công trường 5 của "tướng" Thân Trọng Một. Ông Một mới chỉ ở cấp Trung đoàn trưởng, nhưng người dân vùng ven phục tai đánh giặc của ông, yêu quý ông mà gọi như vậy. K.10 chốt giữ vùng giáp ranh Hương Trà. Trận đói đã kéo dài ngày. Tiêu chuẩn gạo mỗi ngày chỉ một lạng. Gạo đem nấu cháo với môn vót, với củ chuối rừng, với dọc môn ngứa ở khe Điên. Cháo nấu với cua với cá, với bất kỳ con gì bắt được trong rừng đều trở thành nguồn nuôi sống cho bộ đội, du kích trong cơn đói khát. Mỗi lần Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Duy xuống đại đội tôi, gặp cán bộ chiến sĩ ông đều thông báo tình hình chiến sự. Khi giao nhiệm vụ cho đại đội bao giờ ông cũng gài một câu kết luận: "Các đồng chí ạ! chúng ta đang khó khăn. Nhưng dù khó khăn tới đâu, mỗi người lính K.10 có phải thành vượn, thành duộc, chúng ta cũng kiên quyết trụ bám giữ vững vùng giáp ranh, lấy chỗ đứng chân cho trung đoàn. Đại đội ba phải tìm cách đánh địch, bám dân, phải nổ súng để tụi ngụy hiểu rằng K.10 vẫn tồn tại..."
Tôi nghe kể chính trị viên Duy trước đây đã từng giảng dậy ở trường sĩ quan lục quân. Vào năm 1967 ông Duy đưa quân đi và ở lại chiến trường. Ông Duy gốc người Thanh Hoá, hàm răng nhỏ sít, ám khói thuốc lào, có giọng nói nghiêm và đanh. Ông ăn nói giỏi, được lòng anh em chiến sĩ K.10. Ông mới 38 tuổi nhưng so với đám lính học trò mới bước sang tuổi 18 như chúng tôi, ông đáng mặt là thủ trưởng. Khi ông Duy nói chuyện hay họp hành, chẳng mấy khi tôi thấy ông rời khỏi cái tai nghe gắn chặt vào chiếc đài Nationa ba pin đại.
Vào những ngày trung tuần tháng 8 nhiều đêm tôi đi theo anh Để - đại đội trưởng, có hôm đi với anh Hồng - Chính trị viên đội về bám địch, nghiên cứu chi khu Hương Trà. Ông Bậu - tiểu đoàn trưởng lại cùng với đám trinh sát, an ninh của huyện nắm địch ở một hướng khác. Họ đi đâu, làm gì, gặp ai, chúng tôi không rõ. Buổi chiều cùng gặp nhau ở cửa rừng rồi mỗi toán đi theo một ngả khác nhau về đồng bằng. Gần sáng ông Bậu và đám trinh sát mới về, quần áo dính đầy bùn đất, mặt mũi họ bôi đen trông như lính đặc công.
Sau những đêm về được đồng bằng, gặp được dân bộ đội và cán bộ du kích huyện xã mua được gạo, thực phẩm. Ít ngày sau, chúng tôi lại nhận được gạo và đạn dược từ ngoài đường tuyến chuyển về qua đường vận tải sông Bồ. Những trái đạn cối 82, B 40, B 41 còn mới.
Chiều ngày 2/9/1969 chúng tôi mới được Ban chỉ huy tiểu đoàn thông báo đêm nay, tiểu đoàn tổ chức đánh tập kích bằng hoả lực vào cứ Tứ Hạ. Đây là một trận địa pháo 105 ly của ngụy, có sân bay trực thăng dã chiến, có xe tăng và các đơn vị bộ binh chốt giữ bảo vệ căn cứ. Từ 4 giờ chiều hàng trăm những người lính K.10 cùng với bộ đội địa phương của huyện, du kích các xã đã được lệnh tập trung, phân công gùi đạn theo các mũi, các hướng. Hành quân đi bộ, mang trên vai 30-40kg đạn cối và hoả lực, chúng tôi ra được tới gần cửa rừng thì nhận được tin báo: địch chốt chặn cửa rừng và Trung đoàn 54 ngụy đang triển khai dọc theo quốc lộ, để phòng bộ đội ta về đánh đồng bằng, mừng ngày kỷ niệm Quốc khánh. Mọi người đành phải cõng súng đạn trở về hậu cứ.
Ngày 3/9/1969, trời đổ mưa tầm tã từ sáng tới trưa, buổi chiều trời hửng nắng. Đồng bằng Huế nhiều vùng ngập trắng nước. Trinh sát bám địch bão về, địch đã rút lên các điểm cao tránh mưa bão. Ban chỉ huy tiểu đoàn 10, vẫn quyết định đêm nay tổ chức trận đánh về căn cứ Tứ Hạ.
Cho đến 7h tối bốn đại đội của tiểu đoàn đã áp sát vào chân các hàng rào vây quanh căn cứ Tứ Hạ. Bộ đội đã chặt sẵn những cây nạng để gá súng B40, B41. Hai khẩu cối 82 đặt trận địa tại một khu mộ, chỉ cách căn cứ địch chưa tới 300m. Bằng mắt thường chúng tôi cũng nhìn thấy rõ những nòng pháo 105ly của địch được ngụy trang sơ sài, sau dãy hàng rào kẽm gai. Dãy nhà tôn lấp loá ánh điện nơi ở của tụi lính và sỹ quan ngụy. Vọng lại tiếng nhạc sập sình trong quán ba. Cứ quãng 15 phút, lính từ các chòi canh lại bắn lên trời từng quả pháo sáng. Ánh sáng mờ nhạt nhìn rõ từng vòng dây thép gai bùng nhùng chỉ cách chỗ tôi đặt khẩu B4 chưa đầy 5m. Tụi lính gác căn cứ hầu như không hề biết sấm sét sắp nổ trên đầu chúng. Trước lúc xuất quân thủ trưởng Duy đã đi tới từng đại đội căn dặn "Trận đánh đêm nay kỷ niệm mừng ngày Quốc khánh nước ta... Các đồng chí phải nhớ..." Những người lính lúc ấy còn đang bận mải thắt lại dây cùi, dây súng nên không nghe hết lời dặn dò của ông Duy.
22h, hai khẩu cối 82 và 4 khẩu cối 60 phát hoả. Lửa chớp sáng trong căn cứ Tứ Hạ. 14 khẩu B41 và 10 khẩu B40, cơ số đạn mỗi khẩu hoả lực là 8 trái như một dàn tên lửa hoả tiễn đồng loạt bắn vào các ụ súng, ụ pháo, lô cốt của địch. Chỉ sau loạt đạn đầu tiên, căn cứ pháo binh của địch bị bốc cháy. Lửa sáng rực cả một vùng. Trận địa pháo của địch ở Tứ Hạ hầu như câm lặng. Vẳng lên tiếng la hét của đám lính ngụy trúng đạn, bị thương. Một chiếc trực thăng của địch đã bén lửa, cố gắng trốn chạy nhưng không cất cánh nổi đã bốc cháy có nhiều tiếng nổ phát ra từ trong căn cứ.
Trận đánh tập kích bằng hỏa lực diễn ra không đầy 30 phút. Khi toàn bộ đội hình của tiểu đoàn rút lên tới điểm kết, địch ở Huế mới kịp phản ứng. Chúng cho trực thăng chiến đấu lên bắn chặn xung quanh căn cứ. Máy bay OV10 bay lên thả pháo sáng... Pháo địch ở Văn Thánh bắn chặn cửa rừng. Sau này tôi mới được biết, trận đánh tập kích vào căn cứ Tứ Hạ của bộ đội K.10 đã tiêu diệt phần lớn các khẩu pháo, lô cốt, các cụm hỏa lực của địch. Máy bay trực thăng và xe tăng của địch cũng trúng đạn. Các dãy nhà trong căn cứ bị phá sập.
Vào lúc 4h sáng ngày 4/9, bộ đội, cán bộ huyện xã, du kích còn đang ngồi ăn cơm, chờ trời sáng để vào rừng, thì Chính trị viên Duy đã bước lên một thành mộ cao, giọng ông nghẹn ngào: "Thưa các đồng chí, được sự nhất trí của các đồng chí trong huyện ủy, huyện đội Hương Trà, tôi xin thông báo với các đồng chí một tin đau đớn vào lúc 9h45' sáng hôm qua Bác Hồ của chúng ta đã vĩnh viễn ra đi".
Rồi ông Duy khóc. Nhiều chị, nhiều o cũng khóc. Nhiều đồng chí lãnh đạo của huyện như ông Sáu Thọ, ông Trình đã tham gia cách mạng tự kháng chiến chống Pháp. Có người đã đi tập kết, may mắn được gặp Bác Hồ. Từ những năm "sáu mươi" các ông đã trở lại quê hương chiến đấu, nghe tin Bác mất xúc động không nói nên lời.

Tôi xa mảnh đất Hương Trà, xa Huế tới nay đã gần 30 năm. Tiểu đoàn 10 của tôi sau ngày giải phóng Miền đã bị xoá phiên hiệu. Ông Thân Trọng Một, Trung đoàn trưởng ngày xưa đã mất. Tiểu đoàn trưởng Bậu về nghỉ dưỡng tuổi già ở quê nhà... Không còn một người kính K.10 nào kịp ghi vào cuốn biên niên sử của tiểu đoàn trận đánh vào căn cứ Tứ Hạ, đúng vào ngày Bác Hồ ra đi.
Và cũng trôi vào quên lãng quá khứ hào hùng của một tiểu đoàn bộ binh đã từng nhiều phen làm cho địch hoảng loạn trong những trận đánh chống càn ở Phú Vang, Hương Thuỷ, Quảng Điền, Phong Điền. Những đêm vượt phá Tam Giang phá vây ở Cao Ban, Sơn Tùng, dấu mình trên bãi cát Triều Dương về đánh giải phóng Huế. Lớp lớp những người lính K.10 đã ngã xuống vùng ven đô Huế..."
Một lần tôi dừng xe ở Tứ Hạ. Vùng căn cứ cũ của ngụy nay đã là thị trấn Huyện Hương Trà. Không còn lại dấu tích của những hàng rào dây thép gai, lô cốt. Tứ Hạ đã trở thành một thị trấn của thời kỳ đổi mới. Các nhà máy xưởng chế biến, nhà cửa của dân mọc lên san sát. Thấp thoáng bóng nhà cao 2 - 3 tầng ngói đỏ, xen kẽ với những ngôi nhà mới xây.
Sầm sập từng đoàn xe tải, xe khách tàu hoả chạy ngang qua cầu Hiền Sĩ. Rập rình tiếng nhạc trong các quán càphê, karaoke... những dải làng hoang của các thôn Văn Xá, An Đôn, Liễu Nam, Liễu Thượng, Thanh Tân, Sơn Quả... dân đã trở về đông đúc.
Tôi bỗng nhớ tới ông Duy, anh Ngạn, anh Để, anh Hồng, anh Phong, anh Đại... những người chỉ huy cũ của tiểu đoàn 10. Sau những năm chiến tranh, các anh như tan biến đi giữa biển người, giữa cuộc sống lam lũ tất bật đời thường. Nhưng tôi không quên. Bởi chính các anh là người thầy dạy đầu tiên cho tôi trong cuộc đời người lính.
Hà Nội 7/2002
Đ.K.C
(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.

  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.