Tiếng hót cuối cùng của chim Bách Thanh

14:08 12/04/2022

BẠCH LÊ QUANG

1.
Mấy năm về hưu, cõi người chộn rộn, xa xôi, giáo Nghĩa dặn lòng, thôi thì, thân thoái, về với chim chóc, cỏ cây. Tự tâm, ông nghĩ, có khi, muông thú, tiếng chim, hoa và lá lại có chỗ hơn người.

Minh họa: Đặng Mậu Tựu

Cần mẫn, mê đắm, vườn giáo Nghĩa nay rộn ràng tiếng chim ban sáng, ban trưa cho đến cả... chiều hôm nhớ nhà... Đủ cả, Họa Mi, Chích Chòe, Hoàng Yến, Chào Mào... mỗi kiểu mỗi giọng, lưu luyến, giao tình.

Ngoài ra, ngẫu nhĩ trùng phùng, vườn ông giáo còn sở hữu được cả một con chim độc và quái. Chim nầy, hót đủ giọng, trừ giọng thật của mình. Ừ, chim Bách Thanh.

Cũng lạ, giáo Nghĩa cứ nghĩ lui nghĩ tới mãi cái giống nòi nầy... về cái sự tình oan trái mà con tạo xoay vần đã ban cho nó. Nghĩ riết, giáo Nghĩa bỗng bần thần, không biết nó là Bách Thanh - trăm giọng, hay Bất Thanh - không có giọng mình đây hả trời cao đất rộng?

Nghĩ mãi không ra, trằn trọc, day dứt, giáo Nghĩa quyết định nuôi bằng được một con Bách Thanh đế thấu căn cơ, lý số ấy.

Tuy vậy, từ ngày nuôi, bằng hữu, bạn chim của giáo Nghĩa cứ ngày càng thưa vắng. Với họ, Bách Thanh là kẻ thù không đội trời chung của chim cảnh, chim quý. Và nhiều khi, là cả cuộc đời...

Nhớ xưa, bên chung trà sớm, vườn giáo Nghĩa rộn rã tiếng chim, tiếng người. Tiếng chim, cùng đất trời, gió mây mà tấu khúc hòa âm điền dã. Tiếng người như cùng thế sự đã bằng bặt phiêu bồng để cao đàm khoái luận, hả hê với nhân sinh muôn lối vạn ngày...

Thưa và vắng, dẫu vậy, giáo Nghĩa buồn thì có buồn nhưng không giận. Ông hiểu cái lý được và mất của việc nuôi dưỡng loại chim này.

Người lõi nghề, xa lánh ông, bởi với họ, Bách Thanh là loài dối trá, lưu manh, bạc. Trời sinh chúng để chỉ bắt chước giọng loài khác. Cũng không phải không có lý. Họ đã bỏ bao công sức, tiền của để sở cầu một giọng hót hay và lạ. Thế mà, khốn nạn, chỉ cần nghe, chúng đã có thể hót theo, uyển chuyển, bổng trầm, lại dụng công biến tấu, cách điệu như trêu ngươi, đùa bỡn...

Ông Phú - người được bạn nghề gọi vui là Nhà Điểu học ở vùng đất mưa nắng thất thường này - lại nghĩ, giáo Nghĩa càng già nên càng sinh tật, thần phách phiêu linh, lạc lối. Ai đời, sành chim như giáo Nghĩa, gần cuối đời lại để tâm sa đà vào cái giống Bách Thanh.

Với ông, giống này không chỉ trí trá, lưu manh. Ông còn nhận ra, đó là loài chim đồ tể mà người đời từng hay gọi nó...

Nói có bằng chứng hẳn hoi. Một lần, ông Phú đã từng run rẩy, suýt lên cơn động kinh khi mục sở thị cảnh một con chim Bách Thanh bay vào vườn nhà ông, dùng móng sắc, xé nát cái lồng tre mun, giết chết con Chích Chòe Lửa có đuôi hình thuyền viễn xứ rồi tha xác chim ăn dở lên một ngọn cây có gai, xiên con mồi vào một cành nhọn hoắt. Sau nầy, ông Phú mới biết, đó là tập quán sinh tồn quái quỷ của chim Bách Thanh, cái giống hay ăn thịt, ăn cả đồng loại. Chúng cất giữ con mồi như thế để tránh bị chim khác cướp mất...

Chao ôi, giáo Nghĩa ơi, bạn ơi! - Ông Phú nghĩ - Nếu không lú lẫn, không bị hắc ám cuối đời, sao lại có thể tha cái thứ chim quái ác ấy về?

2.

Mặc cõi người buồn vui, xa vắng, miệng lưỡi nhân sinh xao xác, vui buồn, giáo Nghĩa nghĩ khác. Với ông, Bách Thanh là loại chim đáng thương, nghiệp chướng nặng nề, một thứ bị trời xanh quen thói má hồng đánh ghen của càn khôn thiên địa. Theo cái lý cân bằng tồn sinh của giáo Nghĩa, vạn vật sống trên đời mà không có được, dù chỉ một lần giọng thật của mình đó là điều bất công, khốn khổ, thiếu đi cái lẽ đề huề của nhị nguyên đối đãi. Người ta, dù lời hay, lời dở. Chim chóc, muông thú, dù giọng thật, giọng giả, khóc hay cười... Ừ, phải có cái riêng cho mình... Đằng nầy, chim Bách Thanh... Ông hay nghĩ lẩn thẩn, mông lung những điều ấy, trong những buổi chiều vườn nhà, một mình. Và khi nắng đã bắt đầu quá vãng đâu đó trên muôn vàn cỏ nội hoa hèn, chim muông đã ngủ, ông nghĩ, hay cõi người vẫn chưa thấu suốt được giống chim nầy...

Mà thôi, mặc. Nhiều lúc, mệt mỏi, ông cũng như Nguyễn Khuyến, hay nói lẩy... Cụ từng nói “Tuổi già hạt lệ như sương. Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”. Huống hồ, đây lại là chuyện của muông thú chim chóc...

Bình sinh, ông mê cải lương, mê ngâm thơ, nhạc tình và tiếng chim từ vườn nhà...

Lạ lắm, người ta hay bảo, thơ sinh loạn tâm. Có lần, đêm khuya, trong vườn vắng, khi tất cả chỉ là sự im lặng của muôn trùng... giáo Nghĩa nằm võng đong đưa hồn theo giọng ngâm Hồ Điệp. Trong chập chờn sóng âm đậm màu liêu trai, ám chướng bỗng vô thường, vô ảnh, vô pháp, vô thiên... giáo Nghĩa như lạc vào một trận đồ mê thanh có lối vào mà không có lối ra, có cửa tử mà không có cửa sinh. Ở đó, giọng người, giọng chim hòa làm một, không chia, không tách, nhất thể, đau đớn mà phấn khích, cuồng nộ mà êm đềm, tự nhiên nhi nhiên...

Đúng rồi, đêm đó, một đêm tháng chạp, trời không mưa không nắng...

Đêm đó, giáo Nghĩa vẫn còn nhớ như in cái lời thơ mộng mị của Đinh Hùng chao chác đến lạnh người cùng giọng ngâm Hồ Điệp...

Hình như là...

“Trời cuối thu rồi em ở đâu...
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu.
Thu ơi, đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm đáy mộ sâu”

Và đến bây giờ, giáo Nghĩa vẫn không tài nào nhận ra, nhớ được, lời thơ, tiếng ngâm lần ấy là của người hay Bách Thanh đã hoán cốt đoạn thai mà thâm nhập cõi nhân sinh với bản năng mô phỏng đã đến chỗ siêu phàm?

3.

Tiếng lành, dữ, thời chừ, đều đồn xa, đồn gần. Giáo Nghĩa kể, giọng trầm mà xao xác...

Nghe ông có con chim Bách Thanh biết giả giọng người, biết ngâm thơ dù chỉ nghe qua một vài lần, những tay chơi chim từ mọi miền đã lục tục về đánh tiếng, trả già trả non...

Một buổi chiều muộn, mưa rơi xứ kinh kỳ cứ rầu lòng cố quận, giáo Nghĩa tiếp chuyện với một tay lão làng, có số má trong nghề, từ Bắc vào...

Y ngồi đó, mái đầu bạc, từ tốn nhấp từng ngụm trà ướp sen Tịnh, buổi sương sớm vừa tan, rồi chậm rãi - Thú thật với thầy, dọc ngang Nam vào Bắc, xuống bể lên rừng, sơn cước rồi bình nguyên đã trải... từng nghe nhiều, thấy nhiều giống chim, nói được, giả được tiếng người, giọng người. Nhưng nghe giống Bách Thanh ở đây biết ngâm thơ thì mới lần đầu...

Cơ may gặp thầy, sở hữu được chim nầy gọi là duyên, còn nếu vô duyên, phận mỏng cánh chuồng, thưởng lãm được một lần giọng chim cũng thỏa...

Nhận ra người ngồi trước mặt cũng là long tàng hổ ngọa trong làng chim, đêm ấy, giáo Nghĩa mời khách ở lại vài ngày để cùng khách xác thực điều mà đến hôm nay ông vẫn còn chỗ bán tín bán nghi, mê tỉnh, thực mộng khó lường...

Giáo Nghĩa bày rượu, đồ nhắm đắc địa vùng kinh kỳ giữ chân khách vài hôm đợi Bách Thanh nhã hứng, sinh tình thơ dù là thơ người khác, giọng người khác...

Khách cũng biết ý, biết tấm lòng chủ nhân, quyết nán lại chờ...

Chờ mong và nguyện, nguyện sở hữu sự đột biến của chim muông, cây cỏ như đã từng mấy bận bỏ bao công sức, tiền của...

4.

Một đêm, khi mưa và rượu đã tàn, chiếu rượu đã bộn bề niềm nỗi chuyện nghề, chuyện đời, chuyện nhân tình thế thái.

Lúc ấy, lần nầy giáo Nghĩa nhớ rất rõ, trăng sau mưa đã chếch Ngự Bình, vò võ một miền Hương, giáo Nghĩa nhận ra tiếng Bách Thanh tỉnh mộng xưa, rùng cánh, vẫy chiêm bao. Chim trở giấc mộng hoài tiếng dương gian, nghe xa mà thật gần, âm ba vọng vang, thánh thót...

Bây giờ không phải Đinh Hùng mà là một câu thơ Pháp hóa Việt trầm trọng cả cõi người ta...

Mưa ngừng, trăng non buổi sơ huyền, giáo Nghĩa và khách đã bất đồ nghe rất rõ tiếng Bách Thanh...

“Chúng ta không tương phùng được nữa
Mộng trùng lai không có được trên đời...”(*)

Và đó cũng là câu thơ mà ông đã tình cờ ngâm, buổi xứ lạ chim về, buổi Bách Thanh trùng phùng ngẫu nhĩ...

5.

Khách không đem được chim về đất Bắc dù đã ra giá ngất ngưởng...

Giáo Nghĩa nhìn xa xôi như muốn tránh ánh mắt của ông Phú.

Chính cái đêm hôm ấy, Bách Thanh chết. Ông muốn hỏi nó chết như thế nào à. Ừ, giả giọng mấy câu thơ tôi ngâm xong, Bách Thanh kêu thảm mấy tiếng mà tôi ngờ là giọng thật của nó rồi xù lông, bộ lông bây giờ đã biến thành sắc đỏ của máu, của suối nguồn tinh huyết, rùng mình, mạnh mẽ lao vào những cọng nan sắt, dẫy chết như người động kinh...

Giáo Nghĩa lại nhìn xa, lại thở dài...

- Chắc nó chết khi hót được tiếng hót cuối cùng của chính mình, không vay, không mượn, không thật, không giả, không chim, không người phải không ông Phú?

Lần nầy, nhà điểu học lại nhìn xa hơn ánh mắt của giáo Nghĩa. Tiếng ông trầm trong gió thoảng mây bay...

- Ừ, là vậy. Người ta gọi đó là lúc Bách Thanh nhận ra mình. Bản lai diện mục là chỗ nầy phải không ông giáo?

Cả hai ông, ông giáo, ông Phú đều hỏi nhau trong tiếng hót cuối cùng của chim Bách Thanh.

Thật lạ.

B.L.Q
(TCSH44SDB/03-2022)

___________________
(*) Bùi Giáng dịch thơ Apollinaire

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.

  • PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.

  • NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H

  • TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…

  • NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.