NGUYÊN NGUYÊN
Chúng tôi vẫn tiếp tục rảo bước, dọc đại lộ hoang vắng, vẻ như nàng vẫn chưa có dấu hiệu muốn dừng lại. Bởi trước đó nàng nói, khi nào tới gần quảng trường thì dừng lại, nhưng chúng tôi đã đi qua quảng trường cách đây năm phút rồi.
Minh họa: Đặng Mậu Tựu
Tháng một, trời về khuya lạnh hơn bình thường. Khi ấy, tôi đã cởi bỏ chiếc áo khoác gió của mình ra, rồi choàng lên đôi vai gầy đang run lên vì lạnh của nàng. Nàng mỉm cười nói, cảm ơn. Rồi chúng tôi nhanh chóng ngồi xuống một băng ghế bằng gỗ, dưới ngọn đèn tù mù, nếu nhìn lên trông chúng lơ lửng như những bóng ma đến từ quá khứ vẫn đeo bám cuộc đời của chúng ta từng giờ. Và tôi cũng không có ý định sẽ nói với nàng chuyện đó, sẽ chẳng ra làm sao cả.
Tôi nhìn quanh, chẳng có hàng quán nào mở cửa, tất cả đều đã tới giờ giới nghiêm theo lệnh mới được ban hành từ chính quyền của thành phố vào tuần trước. Tôi cũng không rõ chuyện đó. Giá mà không có cái lệnh thì giờ tôi và nàng có thể ngồi trong một quán mì truyền thống của người Hoa, hoặc nhâm nhi một chút rượu ở quán ăn Hàn Quốc gần đây. Thi thoảng, lúc rảnh rỗi sau một buổi biểu diễn của nàng thì chúng tôi cũng thường làm như vậy. Nàng là ca sĩ độc quyền cho một quán bar nhỏ trong quận. Lão chủ với cái đầu nhẵn thín có vẻ rất thích nàng, nhưng hơn hết, nàng có giọng hát thật tuyệt vời!
Đó có thể là thứ âm thanh đẹp đẽ nhất mà tôi từng nghe. Anh nói quá, có lần nàng đã nói với tôi như thế. Tôi đã thử tưởng tượng, khoảng năm mươi năm về sau, khi đã là một lão già gần 80 tuổi, đang sưởi nắng ở một khoảnh vườn nhỏ thuộc một viện dưỡng lão xa xôi ở vùng ngoại ô. Bất chợt, cái âm thanh đẹp đẽ ấy phát ra từ một chiếc điện thoại di động lỗi mốt, thì tôi vẫn có thể nhận ra, thậm chí là âm ư theo những giai điệu của nó nữa.
Bất giác, sau cái suy nghĩ ngớ ngẩn đó tôi bèn quay qua nhìn nàng. Nàng trông nhợt nhạt hơn bình thường.
“Có lẽ, chúng ta nên đi về. Trời về khuya sẽ lạnh lắm đấy!” Tôi lên tiếng đề nghị.
Nhưng vẻ như, nàng không hề để ý tới tôi, bằng chứng là ánh mắt nàng vẫn dõi theo thứ gì đó trên đại lộ. Có thể là chuyển động của một con mèo hoang đang lùng sục trong những thùng rác với hy vọng có thể tìm thấy một mẩu xúc xích thừa chẳng hạn.
Mãi một lúc sau nàng mới cất tiếng.
“Tại sao họ lại đưa ra cái lệnh cấm đó nhỉ? Anh có biết chuyện gì đã xảy
ra không?”
Tôi lắc đầu bảo nàng:
“Anh không biết, nhưng nghe đâu có một vụ tấn công ở quận bên khiến một người phụ nữ bị thương nghiêm trọng.”
Càng về cuối giọng tôi càng trở nên thản nhiên khiến nàng thảng thốt. Ánh mắt nàng mở to nhìn tôi. Và ngay sau đó, tôi đã phải trấn an nàng ngay lập tức.
“Em đừng lo. Chỉ là một vụ việc hi hữu thôi.”
“Nhưng tại sao họ lại phải đặt ra lệnh giới nghiêm đó chứ, chẳng thể đi ăn đêm được?”
“Có lẽ, để đảm bảo cho tất cả đều được đặt trong vòng an toàn.”
“Chắc vậy!”
Ánh mắt nàng cụp xuống, xuôi theo dòng ánh sáng nhờn nhợt vương vãi trên nền gạch ẩm, đượm chút ưu phiền.
“Chúng ta nên về thôi!” Tôi đề nghị.
“Em cũng nghĩ vậy!” Nàng đồng ý.
Sau đó, chúng tôi bắt đầu đi bộ về nhà. Chúng tôi ở cùng tòa nhà, chỉ khác tầng. Tôi tiễn nàng về đến tận cửa phòng, nhưng khi tôi chào nàng và định bụng bước đi thì nàng lại lên tiếng.
“Anh có muốn vào bên trong uống một chút gì không?”
Tôi muốn đi nghỉ sớm, nhưng khi bắt gặp ánh mắt của nàng, tôi lại quyết định đổi ý. Kết quả là chúng tôi, mỗi người cầm một ly whisky trong tay, ngồi trên ghế sofa màu mận chín trong phòng khách nhà nàng, trông ra ngoài cửa sổ, hoàn toàn không thấy gì. Tôi chán nản quay ánh mắt về phía góc phòng, nơi đặt một chiếc máy quay đĩa than. Bên cạnh là một cái kệ nơi đặt hầu hết những bản dạ khúc nổi tiếng của Chopin. Trong những ngày mùa hè nóng nực vào năm ngoái, chúng tôi đã nghe hầu hết những bản nhạc da diết ấy.
“Em đã tìm được một chút thông tin?”
Bất giác, nàng cất tiếng lôi tôi ra khỏi đống bùng nhùng trong tâm trí ban nãy. Tôi biết là nàng đang định nói đến chuyện gì, về ai. Chúng tôi cũng đã nói về cha nàng hơn ngàn lần trong các cuộc nói chuyện, và những nỗ lực tìm kiếm trong vô vọng suốt vài năm qua.
Tôi chưa vội bày tỏ sự ngạc nhiên của mình về cái thông tin mà nàng sẽ cung cấp, bởi có lẽ vài tên xấu xa đã lợi dụng lòng tin của nàng để chuộc lợi hay vì một mục đích không tốt đẹp, nhưng hầu như nàng chẳng bao giờ để tâm đến điều đó. Bởi, hễ cứ có một chút thông tin về người đàn ông ấy - cha nàng là nàng sẽ lao đi như một đoàn tàu xuyên qua màn đêm, bất chấp mọi hậu quả. Tôi cũng không biết một chút gì về người đàn ông ấy qua lời kể của nàng, hoặc chỉ một vài hình ảnh được lôi ra từ một cuốn album cũ mèm đã nằm sâu trong kệ tủ hàng tháng trời.
Tôi nhớ, trong một bức ảnh gần đây nhất mà nàng đưa cho xem, người đàn ông ấy bận trên mình một chiếc áo bành tô màu đen. Dáng người thấp khiến cho ông ta gần như lọt thỏm vào trong cái áo cũ kỹ ấy. Đầu ông ta đội một cái mũ len màu tím than. Ông ta đang ngồi trên một mỏm đá gần bờ biển, miệng thì ngậm một điếu thuốc cháy dở, mắt hướng thẳng về phía những con sóng đang gầm gào. Đó là một hình ảnh mang tính biểu trưng, hoặc đó chỉ là những gì sót lại duy nhất trong tâm trí tôi sau khi nàng kể về người đàn ông ấy. Có lẽ, đó là tất cả những gì tôi cảm thấy ấn tượng nhất.
“Em đã tìm thấy ở đâu?” Tôi hỏi nàng.
“Một địa chỉ? Chính xác là một địa chỉ cụ thể?”
“Có đáng tin không?” Tôi hỏi lại khiến gương mặt nàng trở nên buồn rầu hơn trước.
“Chúng ta sẽ thử xem sao!”
Nàng ngay sau đó nở một nụ cười ngập tràn những niềm hy vọng. Một lần nữa, tôi nhìn ra phía khung cửa sổ tầm thấp trong căn phòng, nhưng hoàn toàn không thấy gì.
*
Ngay đêm hôm đó, như bao lần, nàng lại mơ thấy cha. Nàng kể lại chuyện đó cho tôi vào buổi chiều hôm sau khi chúng tôi đang ngồi uống cà phê ở gần quảng trường trung tâm thành phố, cũng vì lệnh giới nghiêm mà quảng trường vắng hơn thường lệ.
“Thật tiếc khi đó lại chỉ là những hình ảnh rời rạc…”.
Nàng vừa nói vừa dùng thìa khuấy ly cà phê đang bốc những lọn khói mỏng mảnh, mùi ngai ngái.
“Em đã thấy những gì?” Tôi tò mò hỏi lại.
Nàng lắc đầu, hơi cúi xuống như đang cố gắng nhớ lại những gì đã xảy ra trong giấc mơ đêm qua.
“Em đã bảo là mình không thấy rõ mà.”
Có vẻ nàng hơi cáu kỉnh nên tôi đành ngừng lại, rồi cố gắng lảng sang chuyện khác. Khi ấy, tôi nói về thời tiết. Thời tiết cuối tháng một chưa bao giờ dễ chịu cả.
“Ông ấy đã nhìn em với ánh mắt… xa lạ…”.
Tôi ngạc nhiên nhìn nàng.
“Chưa bao giờ ông ấy nhìn em với ánh mắt như thế. Ông ấy còn bận nguyên bộ đồ lúc ông ấy bỏ đi khỏi khách sạn đã lưu trú trong một khoảng thời gian khá dài để hoàn thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng.” “Nhưng tại sao lại thế chứ?” Nàng lắc đầu.
“Em không biết, có lẽ do sai lệch gì đó chăng. Em nghĩ do thứ thuốc an thần mà em đang sử dụng thôi.”
“Em vẫn đang dùng thuốc đó à?”
“Không.” Nàng lắc đầu. “Em đã hạn chế dùng lại theo chỉ dẫn của bác sĩ rồi.”
Sau đó, chúng tôi đều im lặng. Bên góc quán vẫn vang lên đều đều một giai điệu xa lạ nào đó mà tạm thời tôi chẳng thể nhớ tên.
“Lần cuối cùng em gặp ông ấy là khi nào?”
Tôi quay lại nhìn nàng và hỏi, nhưng đúng lúc đó, chuông điện thoại đặt trên bàn của nàng bỗng reo lên từng hồi.
Cuộc đối thoại giữa họ diễn ra vào buổi chiều ngày hôm sau khi tôi đưa nàng tới một địa điểm đã hẹn trước. Tôi luôn hoài nghi về tất cả những người mà nàng sẽ gặp. Bởi vì, rất có thể họ chỉ lợi dụng khi đã nắm được điểm yếu của nàng, và mục đích duy nhất chỉ là chuộc lợi sau khi đã cung cấp cho nàng một số thông tin ít ỏi và không có giá trị. Hầu hết chỉ là một vở kịch được dựng lên.
Tôi chờ mãi khoảng một giờ đồng hồ sau thì họ mới nói chuyện xong. Sau đó, tôi và nàng ngồi tại một quán ăn nhanh. Chúng tôi gọi món gà rán và bắt đầu ăn trong im lặng. Nàng ăn uống một cách ngon lành, vẻ như người lạ đó đã đưa ra một vài thông tin tốt khiến nàng vui như thế!
“Lại một địa chỉ khác nữa đúng không?”
Tôi hỏi nàng trong khi đưa một miếng khoai tây chiên đã mềm xìu lên miệng, cố không biểu lộ cảm giác chán nản trong lời nói, vì tôi rất sợ nàng buồn.
Nàng ngước lên nhìn tôi, rồi gật đầu, nhưng nàng vẫn không nói gì, chỉ cúi xuống tiếp tục ăn hết phần gà còn lại trong đĩa.
“Ở một thị trấn hẻo lánh ven biển.” Nàng đáp.
Tôi im lặng.
“Em muốn đi một mình.” “Không được. Anh sẽ đi cùng em.” Nàng không nói gì nữa, chỉ cười. Đã lâu rồi, tôi mới nhìn thấy nàng cười tươi như thế.
Chúng tôi đã đi hơn 1000 cây số để tới thị trấn ven biển hẻo lánh, theo địa chỉ được ghi vội trên một tờ giấy mà người lạ mặt đã đưa cho nàng.
Đó là một thị trấn ven biển, ít hộ dân sinh sống, hầu như toàn người già. Khi chúng tôi nghỉ tại một quán trọ nhỏ ven đường, trong gian phòng chỉ đủ để đặt vài bộ bàn ghế. Người phục vụ là một ông lão với dáng người nhỏ thó, gương mặt nhăn nheo. Ông ta bảo nếu muốn có chỗ ngủ qua đêm thì cần phải vào trung tâm thị trấn.
Nàng có vẻ mệt, gương mặt tái nhợt đi vì cái lạnh ở đây. Tôi gọi cho nàng một ly trà gừng nóng, rồi sau đó chúng tôi ngồi xuống một cái bàn nhỏ bám đầy bụi nằm trong góc phòng. Trên bức tường có treo bức tranh vẽ một “nàng” tiên cá đang mắc vào một cái lưới lớn. Xung quanh là những người đàn ông với gương mặt bặm trợn, nhìn nàng ta với vẻ mặt đắc chí. Một bức tranh đáng sợ, nhưng dám chắc sẽ thu hút bất cứ ánh nhìn của ai mỗi khi bước vào trong gian phòng nhỏ này. Bằng chứng là tôi nhìn chằm chằm vào bức tranh đó một hồi lâu trước khi người phục vụ già bưng ra hai ly trà gừng cho chúng tôi.
“Không rõ ai đã vẽ bức tranh này,” người phục vụ già nhìn lên rồi nói bằng giọng phân trần, “nhưng nội dung thật man rợ. Cô cậu thấy có đúng không?”
Tôi lắc đầu bảo, mình không biết gì về hội họa, nhưng cũng đồng tình với ý kiến của ông chủ quán.
“Đó gần như là truyền thống của thị trấn này.” Người chủ quán già nói tiếp.
“Truyền thống ư?”
Tôi tò mò hỏi lại. Người phục vụ già ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống cái bàn, ông ta lẳng lặng đặt hai ly nước trước mặt chúng tôi rồi mới nói tiếp.
“Đó là mối thù truyền kiếp giữa người dân nơi đây với người cá.”
Nghe tới đó, ánh mắt của nàng sáng lên pha lẫn chút sợ hãi, tò mò, nàng gần như dịch lại gần chỗ của tôi đang ngồi.
“Thật hoang đường phải không nào? Nhưng truyền thuyết chỉ là truyền thuyết mà thôi. Không có thật. Trời cũng sắp tối rồi nên cô cậu cần phải tìm chỗ dừng chân. Ở đây trời tối đường sá thường đi lại khó khăn lắm, nhất là vào mùa đông mỗi khi sương đêm xuống.”
“Dạ, chúng cháu cảm ơn.” Tôi nói.
Người phục vụ già định rảo bước đi nhưng ông ta vẫn cố hỏi.
“Cô cậu tới thị trấn hẻo lánh này để làm gì?”
“Để tìm người.” Nàng nhanh nhảu đáp lại.
Trung tâm thị trấn cách biển không xa, đi trên đường chúng tôi dễ dàng nghe thấy tiếng sóng đánh ì ọp vào những vách đá dựng đứng, đen ngòm. Nàng có vẻ mệt, nên khi về tới khách sạn, nàng thả mình xuống một cái giường nhỏ rồi cứ thế thiếp đi. Tôi không tài nào ngủ được, vì lạ chỗ nên quyết định ra ngoài ban công để hút một điếu thuốc. Phía xa xa, chỗ gần một vách đá, ngọn hải đăng nháng lên những ánh sáng vẻ ma mị.
*
Người đàn ông tuổi trạc ngũ tuần đó đã ngồi đợi chúng tôi, có lẽ đã được một hồi lâu, trong một quán bar nhỏ nằm ở trung tâm thị trấn. Có tới vài ba cái quán bar kiểu như vậy trong thị trấn này, và hầu như toàn người già tới đây để nhâm nhi.
Khi chúng tôi vừa mới bước từ bên ngoài vào, thì người đàn ông đó đã nhìn thấy, bằng chứng là ông ta giơ một tay lên và ra hiệu cho chúng tôi lại gần. Ông ta nhìn chúng tôi bằng ánh mắt tự nhiên trên gương mặt nhăn nheo có phần già trước tuổi. Nàng háo hức ra mặt. Có lẽ, nàng đã chờ đợi cuộc gặp này lâu rồi. Người đàn ông đó là một người quen của cha nàng. Họ đã quen nhau nhiều năm về trước, trước cả thời điểm cha nàng biến mất.
Sau đó, chúng tôi ngồi xuống. Nàng không uống gì, tôi thì gọi một ly bia đen có vị dở tệ.
“Cô có đôi mắt của ông ấy” - người đàn ông nói - “duy chỉ có đặc điểm đó thôi. Có lẽ, đó là thứ tôi nhớ nhất.”
“Hai người đã quen nhau nhiều năm về trước sao?” Nàng lên tiếng hỏi.
Người đàn ông gật đầu, tranh thủ nhấp thêm một ngụm rượu có màu đỏ trong cái ly thủy tinh cáu bẩn. Mặt dãn ra, vẻ như có rất nhiều điều mà ông ta cần nói ngay bây giờ, nhưng trớ trêu thay khi không biết bắt đầu từ đâu. Ông ta, có lẽ, vẫn đang cố sắp xếp mọi thứ trong đầu mình.
“Đúng thế!” Ông ta nói “cũng nhiều năm về trước rồi. Khi ông ấy đến đây để… làm việc. Như cô biết đấy, việc viết lách như là một phần gắn liền với cuộc đời của ông ấy. Dù tôi chưa bao giờ đọc bất cứ thứ gì ông ấy viết, nhưng tôi tin, về phần nào ông ấy đã làm rất tốt chuyện đó.”
“Nhưng giờ ông ấy đang ở đâu?” Nàng có vẻ hơi sốt ruột, trái ngược lại hoàn toàn so với người đàn ông đối diện.
“Chuyện dài lắm… nhưng tôi sẽ chỉ kể những chi tiết quan trọng thôi.”
Người đàn ông dừng lại tiếp tục hớp nốt chỗ rượu còn lại trong cái ly. Tôi nghĩ, ông ta cần thêm một ly nữa để có thể nói chuyện tiếp, nhưng ông đã không gọi gì mà đưa ánh mắt của mình ra phía bên ngoài không gian tối thui. Khi ấy, trời đang mưa rả rích. Cả khu phố im lìm chìm trong cái lạnh giá đầu xuân.
“Đó là thời điểm ông ấy tới thị trấn này để tìm cảm hứng sáng tác tiểu thuyết mới nhất. Chắc cô vẫn nhớ cuốn tiểu thuyết cuối cùng mà ông ấy đã viết đúng không?”
“Tiếng hát người cá. Đó là cuốn cuối cùng mà ông ấy viết, dù chưa bao giờ được công bố. Cháu cũng chỉ mới nghe qua một chút thông tin thôi. Có lẽ, ông ấy cũng đã viết xong rồi!”
“Đó là một cái chòi nhỏ ven bờ biển…”, người đàn ông bèn đổi sang tông giọng trầm hẳn, như thể ông ta đang biến thành một người hoàn toàn khác vậy.
“Ông ấy đã thuê cái chòi đó từ một người đánh cá đã nghỉ hưu. Ông ấy nói với tôi là cần một nơi yên tĩnh để có thể viết. Câu chuyện lần này rất quan trọng với ông ấy, và ông ấy buộc phải hoàn thành nó trước khi mọi thứ quá muộn.”
“Trước khi mọi thứ quá muộn ư? Ông có thể giải thích cụ thể hơn được không?” Giọng nàng dường như trở nên gấp gáp hơn bình thường.
Người đàn ông lại chìm trong im lặng một lần nữa, rồi ông ta lắc đầu.
“Tôi cũng không rõ nữa, nếu tôi có hỏi thì ông ấy cũng chẳng nói đâu. Ông ấy có một nguyên tắc bất di bất dịch là tất cả những gì liên quan tới công việc ông ấy ít khi nói với ai lắm, kể cả người đó có thân thiết đến mấy.”
Người đàn ông kể tiếp, ngày qua ngày cha nàng giam mình trong căn chòi nhỏ bên cạnh ngọn hải đăng trước biển để làm việc. Cha nàng không liên lạc với bất cứ ai, cũng không cho ai bén mảng tới căn chòi đó, chỉ mình ông với cái thế giới đơn độc ấy. Có một ai đó đã từng nói với tôi rằng, công việc viết luôn trở nên đơn độc hơn bao giờ hết. Ban đầu khi chưa có nhân vật nào xuất hiện, tờ giấy trắng, cây viết chưa ráo mực trước mặt giống như một thế giới sơ khai chưa ai đặt chân đến, chưa được định danh. Công việc đó giống như một nhà thám hiểm vậy.
“Ông ấy cứ giam mình như thế cho tới một ngày, tôi thấy ông ấy xuất hiện ở quán này, đúng chỗ chúng ta đang ngồi đây.”
Nàng ngạc nhiên hết sức, và gần như nàng cũng bị cuốn đi theo câu chuyện. Tôi cũng vậy.
“Khi ấy suýt chút nữa tôi không thể nào nhận ra ông ấy, cứ như thể ông ấy đã biến thành một người hoàn toàn khác vậy. Đầu tóc rũ rượi, khuôn mặt hốc hác, còn ánh mắt thì đờ đẫn, vô hồn. Thậm chí khi tôi đứng trước mặt, phải mất một lúc lâu sau thì ông ấy mới nhận ra sự có mặt của tôi.
Chúng tôi đã làm vài chầu sau đó.”
“Rồi sau đó sao nữa ạ?”
“Sau đó, ông ấy trở về và ngay ngày hôm sau thì mất tích. Không một dấu vết. Lực lượng tuần tra an ninh đã làm việc nhiều ngày sau đó, nhưng hoàn toàn không tìm thấy gì cả. Sau vài tuần họ đã quá chán nản với công việc đó rồi.”
Nan g that von g ra mat, cư như thể mot cu soc khac con đau đơn hơn nhưn g lan trươc ma nan g đa chịu đưn g vay.
“Còn một chi tiết kỳ lạ nữa mà tôi xin được phép kể nốt”, người đàn ông nói tiếp, giọng điệu ông ta chợt thay đổi đột ngột và pha chút gì đó sợ hãi.
“Đêm hôm đó, sau khi chúng tôi uống xong. Tôi đã lén đi theo ông ấy, tới căn chòi. Tôi hoàn toàn bị sốc, vì gần như ông ấy đã hóa điên. Ông ấy nhảy múa điên cuồng, rồi miệng hát lên những ca từ kỳ cục…”. Người đàn ông ngập ngừng, “có chút gì đó liên quan tới truyền thuyết của thị trấn.” “Về người cá ư?” Tôi lên tiếng hỏi.
Người đàn ông gật đầu.
“Cũng không có gì ngạc nhiên cả, vốn dĩ tiểu thuyết mà ông ấy viết cũng phần lớn lấy cảm hứng từ truyền thuyết đó mà. Có lẽ, ông ấy đã quá ám ảnh chăng!”
Cuộc trò chuyện sau đó kết thúc vì người đàn ông nói rằng, ông ta đã kiệt sức, cần phải ngủ ngay. Tôi cũng đưa nàng về khách sạn.
Cả đêm hôm đó, nàng không ngủ, chỉ ngồi yên bên khung cửa sổ rồi chằm chằm nhìn ra phía bên ngoài, bên bờ biển, nơi những con sóng đang ra sức gầm gào. Có lẽ, một cơn bão nữa sắp đến.
Tình hình những ngày sau đó, càng trở nên tồi tệ hơn khi nàng không chịu ăn uống gì cả. Cơn bão đã ngăn cản chúng tôi quay lại thành phố. Chúng tôi phải ở lại thêm so với dự kiến, nhưng vẻ như nàng chẳng quan tâm tới cơn bão và cũng không có ý định đi đâu cả. Nàng cứ nằm lì trong căn phòng, mắt trân trân nhìn về phía bờ biển.
Và dường như mọi thứ trở nên tồi tệ hơn vào ban đêm khi nàng chìm vào trong giấc ngủ. Hễ nàng ngủ là y như rằng, những cơn mê sảng lại ập đến. Hành hạ. Nàng choàng tỉnh giấc, người ướt đẫm mồ hôi như tắm. Phải mất một lúc lâu thì nàng mới có thể trấn tĩnh lại.
“Em đã thấy ông ấy đứng bên bờ biển.” Nàng nói với giọng điệu hết sức hoang mang.
“Đó chỉ là giấc mơ thôi.” Tôi cố gắng trấn an nàng. Thật vô dụng khi tôi chẳng thể làm gì để có thể giúp nàng cả.
“Nhưng nó hoàn toàn chân thật,” nàng nói tiếp “chân thực tới nỗi, gần như em đã có thể chạm vào ông ấy.
Em đã có thể chạm vào ông ấy.”
“Em cần nghỉ ngơi đi.”
“Em muốn ra bờ biển.”
“Nhưng sóng đang to lắm. Cơn bão đã rất gần rồi.”
“Chỉ một lát thôi.”
Khoảng mười lăm phút sau, chúng tôi lái xe đến bờ biển. Sóng gầm gào, bọt nước cứ thế bắn vào gương mặt của chúng tôi. Nàng không nói gì, cũng không cảm thấy lạnh, cứ thế đứng trước mặt biển một hồi lâu. Đoạn, nàng ngỏ ý muốn thăm căn nhà mà nơi cha nàng đã từng ở. Trước đó, người đàn ông đã đưa lại cho chúng tôi chìa khóa. Tôi mở cửa, chúng tôi bước vào. Đó là một căn phòng nhỏ, chỉ độc một chiếc giường, một cái bàn nhỏ đặt cạnh khung cửa sổ hình vuông hướng ra biển, nhưng đóng kín mít, được cố định lại bằng những thanh gỗ chắc chắn. Trên chiếc bàn, một vài tờ giấy trắng nằm chơ vơ. Vài mẩu bút chì và một cái chặn giấy. Phía bên dưới còn một vài mẩu giấy được vo tròn một cách thô bạo, nằm lăn lóc. Chúng tôi cùng ngồi xuống cái giường nhỏ. Chúng tôi cứ ngồi như thế cho tới khi bóng đêm ập xuống, nuốt chửng toàn bộ không gian bé nhỏ này. Biển vẫn không thôi gầm gào. Chúng tôi buộc phải ra về.
Đêm hôm đó, nàng chìm nhanh vào giấc ngủ hơn thường lệ, có lẽ vì đã thấm mệt sau một ngày dài, nhưng tới nửa đêm thì nàng lại choàng tỉnh giấc với gương mặt thảng thốt. Có lẽ, nàng lại vừa trải qua một cơn ác mộng tồi tệ. Gương mặt nàng trắng nhách, sợ hãi. Ánh nhìn trống rỗng ném thẳng về phía bờ biển. Những cơn sóng dữ vẫn không thôi gầm gào. Biển động dữ dội.
“Họ đã bắt ông ấy đi…”. Mất một lúc sau nàng mới cất tiếng.
“Gì cơ?” Tôi hỏi lại vì không nghe rõ, vì đang bận cắm nước để pha một cốc cà phê. Chúng tôi cần một cốc cà phê để giữ được sự tỉnh táo.
“Họ đã bắt ông ấy đi rồi.” Nàng tiếp tục.
“Ai cơ?” Tôi tò mò hỏi lại.
“Những người cá…”, nàng nói tiếp bằng chất giọng mơ hồ, “họ đã quyến rũ ông ấy bằng tiếng hát của mình, rồi bắt ông ấy đi.”
“Không thể nào”, tôi phủ nhận, “đó chỉ là truyền thuyết thôi.” “Không phải là truyền thuyết đâu. Sự thật đấy, em đã thấy.” “Nhưng đó chỉ là giấc mơ thôi mà.
Em nên nghỉ ngơi đi.”
Nàng lắc đầu không đồng tình với ý kiến của tôi.
“Không phải, chính ông ấy đã đưa tay ra cầu cứu em mà. Khi con thuyền bị họ dìm xuống, rồi cả thân thể yếu ớt của ông ấy chìm xuống, chới với. Ông ấy đã đưa tay lên rồi cầu cứu em. Em ở gần đó, nhưng không thể chạy lại, chẳng hiểu vì sao đôi chân em cứng đờ, không thể nhúc nhích. Em đã không thể cứu ông ấy. Em đã không làm gì, chỉ biết đứng nhìn.”
Nàng nói một tràng dài, rồi cả thân thể run lên bần bật, từng hồi. Có lẽ, nàng đang cố gắng kiềm nén cơn xúc động đang trào lên trong cơ thể của mình.
“Có lẽ, em nên đi ngủ lại”, tôi cố gắng trấn an nàng, “sẽ ổn thôi. Ngày mai bão tan, chúng ta sẽ quay trở lại thành phố.”
“Nhưng còn ông ấy thì sao? Ai sẽ cứu ông ấy chứ?” Nàng nhìn tôi với ánh mắt nghiêm túc khiến tôi sợ.
Tôi cố gắng thuyết phục nàng đi ngủ. Nàng nói, tôi cứ ngủ đi, rồi nàng sẽ ngủ sau. Nàng cần một mình, ngay lúc này. Tôi không muốn làm nàng xúc động thêm nữa, nên đã đi ngủ trước. Rất nhanh sau đó, tôi chìm sâu vào trong giấc ngủ, không mộng mị. Nhưng sáng hôm sau, tỉnh dậy khi ánh nắng của ngày mới tràn vào trong căn phòng. Tôi nhìn sang chiếc giường bên cạnh. Trống trơn. Và nàng đã đi rồi.
Sự thực là mấy ngày sau đó vô cùng tồi tệ với tôi. Nỗ lực tìm kiếm trong vô vọng đã vắt kiệt sức của tất cả mọi người. Họ đã đem chuyện này vào quán bar để bàn tán, nhưng rồi rất nhanh họ đã quên đi. Bởi lẽ, dù gì đó cũng là một câu chuyện buồn không đáng để gợi nhắc.
Có người nói, đã nhìn thấy nàng đi về phía bên bờ biển, giữa đêm khuya, trong cơn bão. Thậm chí, có người còn kể một cách vô cùng chi tiết, như thể họ đã chứng kiến sự việc từ đầu đến cuối vậy. Hoặc đơn giản, họ chỉ đang cố thêu dệt lên một câu chuyện rùng rợn để kể với nhau vào lúc rảnh rỗi mà thôi.
Họ nói thêm, họ đã thấy nàng hát. Một giọng hát cao vút giữa mưa gió bão bùng. Rồi nàng cứ đứng im trước mặt biển. Nhưng tới khi được hỏi, nàng đã đi đâu thì họ đều lắc đầu. Họ không biết. Đơn giản nàng chỉ biến mất. Như làn khói. Không để lại dấu vết. Tôi không muốn nghe bất cứ giả thiết nào nữa.
Trươc khi trơ ve than h pho, quay trơ lai vơi cuoc đơi te nhat cuả mình, toi đa đo xe ben bơ bien hoang van g mot hoi lau, phon g an h mat ra phía bờ bien phan g lan g như mot tam gương soi chieu cuoc đơi khon g lo, roi cố gan g phon g sưc tươn g tươn g cuả mình ra nhưng khon g the. Toi khon g phai là mot nha van gion g cha nan g nen khon g the viet gì them vaò đoan đo. Thu thưc, khi ay, toi chỉ thay tron g ron g ma thoi. Roi toi chơt ao ươc co mot cuoc đơi bình thươn g, chư khon g bị cuon vaò mot vai sư kien ky la như the.
Đoạn, tôi quyết định đi vào xe để trở về thành phố, đảm bảo nửa đời sau của mình tôi sẽ không bao giờ đặt chân tới đây nữa. Lúc trong xe, vô tình radio bật lên phát ra bản thu một ca khúc của nàng. Giọng hát trong trẻo, cao vút phá vỡ những thành trì vững chãi thành đống tro tàn rồi chìm xuống biển sâu. Rồi tất cả chỉ là đống phế tích. Khi ấy, tôi tự nhủ, không biết khi đó, ở một nơi nào trên thế gian này nàng đã đoàn tụ với cha mình hay chưa?
N.N
(TCSH398/04-2022)
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.
THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.
XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.
PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...
PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.
QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.
XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.