NGÔ MINH
Đoàn nhà văn Huế về thăm làng biển Thượng Luật - Từ trái sang: Hồ Thế Hà, Tô Nhuận Vỹ, Ngô Minh, Nhất Lâm - Ảnh: ngominh.vnweblogs.com
Thức với làng biển Thượng Luật
1
đêm như đá
biển va dông chớp
nhoi nhói những con thuyền chưa về
tắt đèn mà chưa ai ngủ
thắc thỏm trời cũng chưa ngủ
he hé những ngôi sao màu lửa ủ tro
Sóng sầm sịch lưng chừng ngoài biển bắc…(*)
chạnh lòng ta lắm
tiếng ru
2
mộ ông nội ta nằm quay ra hướng biển
mộ bà nội ta nằm quay ra hướng biển
mộ ba ta nằm quay ra hướng biển
mộ mạ ta nằm quay ra hướng biển
đời nội ngư trường Hoàng Sa như cánh đồng làng
đời ba ngư trường Trường Sa như cánh đồng làng
trăm năm bủa câu giăng lưới
trăm năm làng thức đợi thuyền
sóng sậm sịch lưng chừng ngoài biển bắc…
bà nội ta hát rứa
mạ ta hát rứa
và bây giờ em hát rứa
những con thuyền chưa về
câu hát như đêm
ủ lửa
3
Làng ơi
Bên trái ta là eo Tàu Đồng, bên phải là xóm Tàu Sắt
những con tàu xâm lăng bỏ xác một thời
chị dâu ta trung đội trưởng pháo tầm xa 85 ly
bạn gái ta mười đứa là pháo thủ
năm lần bắn cháy tàu chiến Mỹ
“Xê Gái pháo binh Ngư Thủy” hóa tượng đài
vĩnh hằng trước biển
bây giờ các chị đã thành bà nội bà ngoại
có cháu trai đánh bắt xa bờ
có cháu gái đêm đêm lại ru con hát đợi
Sóng sậm sịch lưng chừng ngoài biển bắc
Giọt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên…
4
Làng ơi
giọt mưa tình chốn hàng hiên
và sóng dữ ngoài biển bắc
tưởng xa lạ
mà thành thổn thức
bà nội ta hát rứa
mạ ta hát rứa
và bây giờ em hát rứa
câu hát gọi chân trời
nhú lửa…
Làng Thượng Luật, 8/9/2011
......................................................
(*) Dân ca Bình - Trị - Thiên
Sóng sầm sịch lưng chừng ngoài biển bắc
Giọt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên
Em muốn làm lơ đi mà ngủ, ngủ cũng không yên
Sợ mưa già nước ngập, biết tựa con thuyền vào đâu?
(SH295/09-13)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi