PHƯƠNG ANH
Tôi thường chọn cho mình những phút giây lặng lẽ, bình yên của những ngày vào thu ở một góc quán vắng để ngắm nhìn dòng xe xuôi ngược, mỗi chuyến xe là một cuộc đi.
Minh họa : Nhím
Tôi nhìn mùa thu đến và đi đã nhiều lần, mỗi mùa thu Huế đều có những gam màu khác biệt. Trong không gian mênh mông đó, những kỷ niệm là nơi bắt nguồn nỗi nhớ. Tôi nhớ Huế dù tôi đang ở Huế. Tôi nhớ những hạt sương nhẹ phủ trên vai Trường Tiền; nhớ những cơn mưa nhè nhẹ đủ để cất lên âm thanh tí tách; nhớ những hạt nắng màu vàng mơ khoác lên màu xanh của Huế; và tôi nhớ những tách cà phê thơm nồng; những ngõ nhỏ, những con phố cà phê của Huế đã làm tôi mê đắm.
Tôi thích lang thang một mình trên những con đường xao xác lá mùa thu, bỗng thấy lòng nhẹ nhàng, được thỏa sức để nhớ, để suy tư, để được có một khoảng lặng. Có khi chỉ cần ngồi trong một quán cà phê nhỏ, nghe những bản tình ca của Trịnh Công Sơn, của Phạm Duy hay Văn Cao và nhâm nhi ly cà phê thả hồn theo mây khói cũng đã đủ hạnh phúc.
Cà phê tạo cảm giác lâng lâng, cuốn theo dòng tâm cảm và bao giờ cũng quyến rũ người ta bằng vị đắng và mùi hương thơm nồng. Tôi thích uống cà phê, và không hẳn chỉ là cà phê sữa, cả cà phê đen, cà phê muối bởi rất nhiều vị cà phê giống những mùi đời tôi đã trải qua suốt hai lăm năm. Với tôi, mỗi ly cà phê như một kỷ niệm; là một câu chuyện về cuộc đời, về tình yêu về sự mong manh của thân phận... Tôi yêu cà phê Huế theo mùa; mỗi mùa tôi lại tìm cho mình một góc nhỏ, có khi cùng bạn bè, có khi cùng người yêu hay một mình.
Có những chiều tàn tôi đắm mình trong nỗi nhớ, tôi lang thang trong cái nắng của mùa thu để ngắm hoàng hôn. Đặt chân đến bờ hồ bán nguyệt, nơi đây tôi thấy bầu trời rất rộng, mây rất xanh và ánh mặt trời yếu ớt cuối ngày rọi xuống những nóc nhà thành phố. Nơi lưu dấu kỷ niệm đáng yêu của lũ chúng tôi thời sinh viên. Thuở ấy, mỗi khi nắng chiều bỗng tắt, khi phố lên đèn chúng tôi lại hẹn hò. Tôi cùng những người bạn ngồi bệt bên cà phê bờ hồ bán nguyệt ngắm màn đêm, trò chuyện cùng nhau dưới trăng thanh gió mát và nói với nhau về những ước mơ và giới hạn của ước mơ. Cà phê bờ hồ là nơi đặc biệt, những tấm giấy cứng được thay bằng ghế, tiếng đàn guitar của các bạn sinh viên làm cho cả không gian như muốn khiêu vũ. Bờ hồ với thảm cỏ xanh bao quanh, là nơi hẹn hò của những đôi vừa mới rung động đầu đời; là nơi rộng rãi để tụ tập bạn bè; khung cảnh lãng mạn, miên man của những cành liễu rủ soi mình dưới nước chạm vào mặt hồ cùng ánh đèn linh nhưng rất đỗi bình yên. Bình yên như chính vùng đất này vậy. Giờ đây, khi bạn bè đã xa, tôi vẫn thường lang thang và ngồi một mình nơi không gian này, bên nhành liễu đã hết mùa hoa cùng những hạt mưa lất phất qua ánh đèn vàng của phố.
Đôi khi, những quán cà phê Huế cho tôi có thể trú nhờ những nỗi buồn, những lúc đó tôi chỉ cần ngồi bên quán Chiều, nghe nhạc Trịnh và đọc sách, vơi đi bao nỗi ưu phiền. Cà phê Chiều giản dị giữa lòng thành phố, một chút sen khô, một chút hoa dại, đôi ba bức ảnh xưa cũ với nét u tịch như cả trăm năm bên thành quách xưa. Tôi chọn cho mình một góc thật đẹp, thả mình vào mùi hương cà phê nồng nàn và nghe vị ngọt từ giọng hát Thái Thanh, Khánh Ly, Tuấn Ngọc... “Chiều nay em ra phố về/ Thấy đời mình là những chuyến xe/ Còn đây âm vang não nề/ Ngày đi đêm tới trăm tiếng mơ hồ...”. Trong tiết trời tháng tám, quán Chiều với mùi hương của ký ức, mùi cà phê hòa quyện vào tâm trạng làm cho tôi có cảm giác bình yên. Tôi như thể một cô gái Huế nào đó đang tìm kiếm một mối tình lãng mạn trong hư áo của mùa thu. Chẳng phải riêng tôi, hầu như ai đến Huế cũng tìm đến cái hay cái lạ nhưng rất đỗi thân quen của Chiều. Những ánh nến leo lắt qua những khung cửa nhỏ càng tạo nên sự bí ẩn của quán cà phê đặc biệt này. Sự bình dị của Chiều đã tạo nên một nét riêng cho những người yêu cà phê Huế, yêu Huế và yêu cả những phút trầm tư nơi mảnh đất đã trải qua bao dâu bể trong 700 năm lịch sử.
Gió heo may lại về, đôi khi lại muốn chạy trốn những yêu thương xưa cũ bởi ký ức chẳng bao giờ phai tàn và tìm cho mình một khoảng lặng giữa cuộc sống ồn ào. Bên cạnh những quán cà phê bình dị, đôi lúc tôi cũng tìm cho mình một nơi thật cao để ngắm nhìn, để thỏa cơn mộng mị. Tôi chọn cho mình quán cà phê trên sân thượng của một khách sạn, nhìn qua cửa kính trên một tòa nhà, thấy lòng mình bao la, cả thành phố xanh mát ôm dòng Hương. Phố chiều thu sương giăng như những bản tình ca buồn, ước gì có một cơn mưa nhẹ đủ làm nhòe mặt kính, để Huế càng mờ ảo, càng lung linh. Ở đây, tôi gọi cho mình một ly cà phê của Ý và ngắm Huế chiều sương. Tôi nhìn xuống dòng người trên phố, tự dưng thấy Huế bình yên, không vội vã, không chen lấn, họ điềm tĩnh và lướt nhẹ giữa lòng thành phố.
Huế là vậy, luôn mang trong mình một nỗi buồn man mác, nỗi buồn tuyệt đẹp như những giấc mơ cổ tích. Huế là nơi sinh ra con người tài hoa họ Trịnh, giờ đây khi đã khuất xa, căn nhà xưa vẫn đó, vẫn lời nhạc du dương bao năm không bao giờ quên lãng. Trước đây, khi Gác Trịnh chưa đóng cửa, tôi vẫn thường hay đến. Trong căn gác đơn sơ, những tách cà phê đã hòa quyện cùng điệu nhạc, những ánh đèn vàng cho những tâm hồn yêu Trịnh. Gác Trịnh là một không gian văn hóa của những anh em văn nghệ sĩ Huế, là điểm đến cho những người ghé về Huế và yêu nhạc Trịnh, nhớ Trịnh. Nhớ lần đầu đến với Gác Trịnh, cái ngày lạnh buốt da thịt, tôi ngồi bên song cửa sổ với nhành lan tím, với những tàn thuốc đã tắt cùng tiếng rao yếu ớt của cô bán bánh rán. Trên một căn gác lặng yên, với tách cà phê nóng, ngoài kia gió rít vào lồng ngực; chợt thương những đôi quang gánh, đôi chân tê buốt trên con đường lạnh giá để mưu sinh. Đêm lạnh, lòng tôi cũng lạnh. Những tiếng rao làm não nề cả một con đường. Tôi yêu Trịnh, yêu căn gác này, yêu tiếng thở của những ca từ vang vọng.
Sau những cơn mưa, tôi đã cùng anh ngồi trong ánh nắng chiều len lỏi vào từng song cửa, chiếu vào tôi, vào anh, vào đôi mắt buồn. Nhìn ánh nắng tuyệt đẹp đó, anh hát cho tôi nghe “Có người lòng như nắng qua đèo” bởi ánh nắng vàng nhạt, không rực rỡ mà mơ màng buồn và cô đơn. Và tôi biết những nỗi buồn luôn hiện hữu trong cuộc đời này nhưng không phải sự đau khổ nào cũng làm ta tuyệt vọng, và đôi khi “hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy nó cũng đẹp như một bông hoa...”.
Khi những cơn mưa ngang qua để lại chút lòng se lạnh, lại nhớ những ngày xưa. Ngày mưa, tôi thường được anh chở đi trong mưa và nghe anh hát, hát cả đoạn đường dài mặc cho mưa tan vào cổ họng. Tôi hạnh phúc nép vào lưng anh và cười khúc khích, cười vì hạnh phúc như trong giấc mơ tôi thường nghĩ về. Cái hạnh phúc tưởng chừng như đơn giản. Hôm đó là mùa đông, trời vẫn cứ mưa, hai chúng tôi ướt sũng và lạnh vô cùng, nhưng trong lòng thì ấm áp. Chúng tôi trò chuyện, cười cười nói nói, hạnh phúc như chưa bao giờ hơn thế. Anh là người thích cà phê, và luôn là cà phê đen đá. Nhưng hôm nay, tôi rủ anh vào cà phê muối, trong một căn nhà nhỏ màu tím với những khúc tình ca. Chúng tôi từ từ nếm mùi vị của cà phê muối và mới cảm nhận hơn được vị đắng của cà phê, vị mặn của muối quyện vào vị ngậy béo của bọt sữa. Tất cả tạo thành mùi vị khó quên. Ngoài trời mưa trắng xóa, hai đứa ngồi bên góc nhỏ có ánh sáng màu vàng đủ để có cảm giác ấm, và cứ thế, chúng tôi im lặng nhìn nhau.
Trước mắt chúng tôi là một màu Huế đầy thơ, một không gian yên ắng, một cuộc sống nhẹ nhàng hiện ra như những gì tôi ao ước. Và vì thế mà chúng tôi chọn Huế, gắn trọn với Huế để được sống thỏa tâm hồn mơ mộng. Và chúng tôi tin rằng trong cuộc đời mặn chát đắng cay này luôn có những niềm hạnh phúc ngọt ngào, đôi khi sự ngọt ngào do mình tạo ra giữa thế giới đầy bất hạnh.
Trong cuộc sống, tôi tin vào định mệnh. Sự gặp gỡ cũng là do nhân duyên, bởi thế, nhân duyên đã mang đến cho tôi những người bạn, quý nhau từ lần gặp đầu tiên. Những tách cà phê Huế đôi khi làm chúng tôi gần nhau hơn. Mỗi khi những người bạn trở về Huế, tôi lại dẫn họ lang thang đến những quán cà phê cóc. Chúng tôi thường quen ngồi những quán ven đường, dưới những tán cây rợp mát với những ánh nắng rọi vào những ly cà phê. Không gian cà phê cóc ồn ào nào nhiệt nhưng lại là nơi thân thiện và gần gũi biết bao. Chúng tôi ngồi trò chuyện với nhau với tách cà phê chưa đến mười ngàn đồng, với những câu chuyện tiếu lâm mà cười nghiêng ngả, có đôi nghe loáng thoáng đôi ba câu chuyện đứt đầu đứt đuôi của những người xung quanh cũng thấy vui lòng.
Chạy dọc con phố Chi Lăng, con đường ven sông Hương trữ tình, quán cà phê mang tên Hoàng Phương là nơi tôi chọn để ngắm trăng. Dưới chân là nước, trăng từ từ trên đỉnh đầu và dòng nước đưa trăng về gần với tôi. Trăng tròn và rất đẹp, lần đầu tiên tôi thấy trăng đẹp đến thế, trăng trước mắt tôi và trăng dưới dòng nước, lững lờ lững lờ, tôi ước gì được bắt lấy trăng và nhớ tới tích xưa có một chàng thi sĩ yêu trăng và nhảy xuống sông vớt trăng lên… Chẳng phải là quá ủy mị, chẳng phải là một người quá mộng mơ, nhưng cảm xúc thì không bao giờ kìm nén được. Tôi không kìm nén được những cảm xúc của mình khi nhìn thấy cái đẹp, và tôi có cách yêu cái đẹp của riêng mình, và cứ thế yêu trăng, yêu cà phê, yêu Huế. Và cứ như thế, mỗi khi nhớ trăng nhớ người, tôi lại đến bên bờ sông từ chiều sớm và ngồi đến khuya để được gặp trăng.
Khi mùa thu chợt đến, mùa của những nỗi buồn man mác, là khi tôi lại muốn lang thang. Mùa đẹp nhất để tôi có thể bung tỏa tâm trạng của mình. Mùa để tôi được nhớ, được yêu. Và mùa tôi được loanh quanh với những tách cà phê xứ Huế. Bởi tôi yêu cà phê, yêu Huế như yêu chính tình yêu của mình. Tôi như muốn tan vào theo những dư vị của cà phê trên đầu lưỡi, như muốn đi cùng với những cơn gió heo may. Và rồi tôi nhận ra cuộc sống này thật đẹp, đẹp như chính những nỗi buồn của tôi. Chiều nay, tôi lại lang thang, vay mượn những hạt mưa mùa thu làm nỗi nhớ, mượn chút sen cuối mùa và một nơi quen thuộc để lại được hòa quyện cùng cà phê, để lại được suy tư và mơ mộng.
P.A
(SDB18/09-15)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...