Thu cô liêu bên cà phê Huế

09:00 19/10/2015

PHƯƠNG ANH 

Tôi thường chọn cho mình những phút giây lặng lẽ, bình yên của những ngày vào thu ở một góc quán vắng để ngắm nhìn dòng xe xuôi ngược, mỗi chuyến xe là một cuộc đi.

Minh họa : Nhím

Tôi nhìn mùa thu đến và đi đã nhiều lần, mỗi mùa thu Huế đều có những gam màu khác biệt. Trong không gian mênh mông đó, những kỷ niệm là nơi bắt nguồn nỗi nhớ. Tôi nhớ Huế dù tôi đang ở Huế. Tôi nhớ những hạt sương nhẹ phủ trên vai Trường Tiền; nhớ những cơn mưa nhè nhẹ đủ để cất lên âm thanh tí tách; nhớ những hạt nắng màu vàng mơ khoác lên màu xanh của Huế; và tôi nhớ những tách cà phê thơm nồng; những ngõ nhỏ, những con phố cà phê của Huế đã làm tôi mê đắm.

Tôi thích lang thang một mình trên những con đường xao xác lá mùa thu, bỗng thấy lòng nhẹ nhàng, được thỏa sức để nhớ, để suy tư, để được có một khoảng lặng. Có khi chỉ cần ngồi trong một quán cà phê nhỏ, nghe những bản tình ca của Trịnh Công Sơn, của Phạm Duy hay Văn Cao và nhâm nhi ly cà phê thả hồn theo mây khói cũng đã đủ hạnh phúc.

Cà phê tạo cảm giác lâng lâng, cuốn theo dòng tâm cảm và bao giờ cũng quyến rũ người ta bằng vị đắng và mùi hương thơm nồng. Tôi thích uống cà phê, và không hẳn chỉ là cà phê sữa, cả cà phê đen, cà phê muối bởi rất nhiều vị cà phê giống những mùi đời tôi đã trải qua suốt hai lăm năm. Với tôi, mỗi ly cà phê như một kỷ niệm; là một câu chuyện về cuộc đời, về tình yêu về sự mong manh của thân phận... Tôi yêu cà phê Huế theo mùa; mỗi mùa tôi lại tìm cho mình một góc nhỏ, có khi cùng bạn bè, có khi cùng người yêu hay một mình.

Có những chiều tàn tôi đắm mình trong nỗi nhớ, tôi lang thang trong cái nắng của mùa thu để ngắm hoàng hôn. Đặt chân đến bờ hồ bán nguyệt, nơi đây tôi thấy bầu trời rất rộng, mây rất xanh và ánh mặt trời yếu ớt cuối ngày rọi xuống những nóc nhà thành phố. Nơi lưu dấu kỷ niệm đáng yêu của lũ chúng tôi thời sinh viên. Thuở ấy, mỗi khi nắng chiều bỗng tắt, khi phố lên đèn chúng tôi lại hẹn hò. Tôi cùng những người bạn ngồi bệt bên cà phê bờ hồ bán nguyệt ngắm màn đêm, trò chuyện cùng nhau dưới trăng thanh gió mát và nói với nhau về những ước mơ và giới hạn của ước mơ. Cà phê bờ hồ là nơi đặc biệt, những tấm giấy cứng được thay bằng ghế, tiếng đàn guitar của các bạn sinh viên làm cho cả không gian như muốn khiêu vũ. Bờ hồ với thảm cỏ xanh bao quanh, là nơi hẹn hò của những đôi vừa mới rung động đầu đời; là nơi rộng rãi để tụ tập bạn bè; khung cảnh lãng mạn, miên man của những cành liễu rủ soi mình dưới nước chạm vào mặt hồ cùng ánh đèn linh nhưng rất đỗi bình yên. Bình yên như chính vùng đất này vậy. Giờ đây, khi bạn bè đã xa, tôi vẫn thường lang thang và ngồi một mình nơi không gian này, bên nhành liễu đã hết mùa hoa cùng những hạt mưa lất phất qua ánh đèn vàng của phố.

Đôi khi, những quán cà phê Huế cho tôi có thể trú nhờ những nỗi buồn, những lúc đó tôi chỉ cần ngồi bên quán Chiều, nghe nhạc Trịnh và đọc sách, vơi đi bao nỗi ưu phiền. Cà phê Chiều giản dị giữa lòng thành phố, một chút sen khô, một chút hoa dại, đôi ba bức ảnh xưa cũ với nét u tịch như cả trăm năm bên thành quách xưa. Tôi chọn cho mình một góc thật đẹp, thả mình vào mùi hương cà phê nồng nàn và nghe vị ngọt từ giọng hát Thái Thanh, Khánh Ly, Tuấn Ngọc... “Chiều nay em ra phố về/ Thấy đời mình là những chuyến xe/ Còn đây âm vang não nề/ Ngày đi đêm tới trăm tiếng mơ hồ...”. Trong tiết trời tháng tám, quán Chiều với mùi hương của ký ức, mùi cà phê hòa quyện vào tâm trạng làm cho tôi có cảm giác bình yên. Tôi như thể một cô gái Huế nào đó đang tìm kiếm một mối tình lãng mạn trong hư áo của mùa thu. Chẳng phải riêng tôi, hầu như ai đến Huế cũng tìm đến cái hay cái lạ nhưng rất đỗi thân quen của Chiều. Những ánh nến leo lắt qua những khung cửa nhỏ càng tạo nên sự bí ẩn của quán cà phê đặc biệt này. Sự bình dị của Chiều đã tạo nên một nét riêng cho những người yêu cà phê Huế, yêu Huế và yêu cả những phút trầm tư nơi mảnh đất đã trải qua bao dâu bể trong 700 năm lịch sử.

Gió heo may lại về, đôi khi lại muốn chạy trốn những yêu thương xưa cũ bởi ký ức chẳng bao giờ phai tàn và tìm cho mình một khoảng lặng giữa cuộc sống ồn ào. Bên cạnh những quán cà phê bình dị, đôi lúc tôi cũng tìm cho mình một nơi thật cao để ngắm nhìn, để thỏa cơn mộng mị. Tôi chọn cho mình quán cà phê trên sân thượng của một khách sạn, nhìn qua cửa kính trên một tòa nhà, thấy lòng mình bao la, cả thành phố xanh mát ôm dòng Hương. Phố chiều thu sương giăng như những bản tình ca buồn, ước gì có một cơn mưa nhẹ đủ làm nhòe mặt kính, để Huế càng mờ ảo, càng lung linh. Ở đây, tôi gọi cho mình một ly cà phê của Ý và ngắm Huế chiều sương. Tôi nhìn xuống dòng người trên phố, tự dưng thấy Huế bình yên, không vội vã, không chen lấn, họ điềm tĩnh và lướt nhẹ giữa lòng thành phố.

Huế là vậy, luôn mang trong mình một nỗi buồn man mác, nỗi buồn tuyệt đẹp như những giấc mơ cổ tích. Huế là nơi sinh ra con người tài hoa họ Trịnh, giờ đây khi đã khuất xa, căn nhà xưa vẫn đó, vẫn lời nhạc du dương bao năm không bao giờ quên lãng. Trước đây, khi Gác Trịnh chưa đóng cửa, tôi vẫn thường hay đến. Trong căn gác đơn sơ, những tách cà phê đã hòa quyện cùng điệu nhạc, những ánh đèn vàng cho những tâm hồn yêu Trịnh. Gác Trịnh là một không gian văn hóa của những anh em văn nghệ sĩ Huế, là điểm đến cho những người ghé về Huế và yêu nhạc Trịnh, nhớ Trịnh. Nhớ lần đầu đến với Gác Trịnh, cái ngày lạnh buốt da thịt, tôi ngồi bên song cửa sổ với nhành lan tím, với những tàn thuốc đã tắt cùng tiếng rao yếu ớt của cô bán bánh rán. Trên một căn gác lặng yên, với tách cà phê nóng, ngoài kia gió rít vào lồng ngực; chợt thương những đôi quang gánh, đôi chân tê buốt trên con đường lạnh giá để mưu sinh. Đêm lạnh, lòng tôi cũng lạnh. Những tiếng rao làm não nề cả một con đường. Tôi yêu Trịnh, yêu căn gác này, yêu tiếng thở của những ca từ vang vọng.

Sau những cơn mưa, tôi đã cùng anh ngồi trong ánh nắng chiều len lỏi vào từng song cửa, chiếu vào tôi, vào anh, vào đôi mắt buồn. Nhìn ánh nắng tuyệt đẹp đó, anh hát cho tôi nghe “Có người lòng như nắng qua đèo” bởi ánh nắng vàng nhạt, không rực rỡ mà mơ màng buồn và cô đơn. Và tôi biết những nỗi buồn luôn hiện hữu trong cuộc đời này nhưng không phải sự đau khổ nào cũng làm ta tuyệt vọng, và đôi khi “hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy nó cũng đẹp như một bông hoa...”.

Khi những cơn mưa ngang qua để lại chút lòng se lạnh, lại nhớ những ngày xưa. Ngày mưa, tôi thường được anh chở đi trong mưa và nghe anh hát, hát cả đoạn đường dài mặc cho mưa tan vào cổ họng. Tôi hạnh phúc nép vào lưng anh và cười khúc khích, cười vì hạnh phúc như trong giấc mơ tôi thường nghĩ về. Cái hạnh phúc tưởng chừng như đơn giản. Hôm đó là mùa đông, trời vẫn cứ mưa, hai chúng tôi ướt sũng và lạnh vô cùng, nhưng trong lòng thì ấm áp. Chúng tôi trò chuyện, cười cười nói nói, hạnh phúc như chưa bao giờ hơn thế. Anh là người thích cà phê, và luôn là cà phê đen đá. Nhưng hôm nay, tôi rủ anh vào cà phê muối, trong một căn nhà nhỏ màu tím với những khúc tình ca. Chúng tôi từ từ nếm mùi vị của cà phê muối và mới cảm nhận hơn được vị đắng của cà phê, vị mặn của muối quyện vào vị ngậy béo của bọt sữa. Tất cả tạo thành mùi vị khó quên. Ngoài trời mưa trắng xóa, hai đứa ngồi bên góc nhỏ có ánh sáng màu vàng đủ để có cảm giác ấm, và cứ thế, chúng tôi im lặng nhìn nhau.

Trước mắt chúng tôi là một màu Huế đầy thơ, một không gian yên ắng, một cuộc sống nhẹ nhàng hiện ra như những gì tôi ao ước. Và vì thế mà chúng tôi chọn Huế, gắn trọn với Huế để được sống thỏa tâm hồn mơ mộng. Và chúng tôi tin rằng trong cuộc đời mặn chát đắng cay này luôn có những niềm hạnh phúc ngọt ngào, đôi khi sự ngọt ngào do mình tạo ra giữa thế giới đầy bất hạnh.

Trong cuộc sống, tôi tin vào định mệnh. Sự gặp gỡ cũng là do nhân duyên, bởi thế, nhân duyên đã mang đến cho tôi những người bạn, quý nhau từ lần gặp đầu tiên. Những tách cà phê Huế đôi khi làm chúng tôi gần nhau hơn. Mỗi khi những người bạn trở về Huế, tôi lại dẫn họ lang thang đến những quán cà phê cóc. Chúng tôi thường quen ngồi những quán ven đường, dưới những tán cây rợp mát với những ánh nắng rọi vào những ly cà phê. Không gian cà phê cóc ồn ào nào nhiệt nhưng lại là nơi thân thiện và gần gũi biết bao. Chúng tôi ngồi trò chuyện với nhau với tách cà phê chưa đến mười ngàn đồng, với những câu chuyện tiếu lâm mà cười nghiêng ngả, có đôi nghe loáng thoáng đôi ba câu chuyện đứt đầu đứt đuôi của những người xung quanh cũng thấy vui lòng.

Chạy dọc con phố Chi Lăng, con đường ven sông Hương trữ tình, quán cà phê mang tên Hoàng Phương là nơi tôi chọn để ngắm trăng. Dưới chân là nước, trăng từ từ trên đỉnh đầu và dòng nước đưa trăng về gần với tôi. Trăng tròn và rất đẹp, lần đầu tiên tôi thấy trăng đẹp đến thế, trăng trước mắt tôi và trăng dưới dòng nước, lững lờ lững lờ, tôi ước gì được bắt lấy trăng và nhớ tới tích xưa có một chàng thi sĩ yêu trăng và nhảy xuống sông vớt trăng lên… Chẳng phải là quá ủy mị, chẳng phải là một người quá mộng mơ, nhưng cảm xúc thì không bao giờ kìm nén được. Tôi không kìm nén được những cảm xúc của mình khi nhìn thấy cái đẹp, và tôi có cách yêu cái đẹp của riêng mình, và cứ thế yêu trăng, yêu cà phê, yêu Huế. Và cứ như thế, mỗi khi nhớ trăng nhớ người, tôi lại đến bên bờ sông từ chiều sớm và ngồi đến khuya để được gặp trăng.

Khi mùa thu chợt đến, mùa của những nỗi buồn man mác, là khi tôi lại muốn lang thang. Mùa đẹp nhất để tôi có thể bung tỏa tâm trạng của mình. Mùa để tôi được nhớ, được yêu. Và mùa tôi được loanh quanh với những tách cà phê xứ Huế. Bởi tôi yêu cà phê, yêu Huế như yêu chính tình yêu của mình. Tôi như muốn tan vào theo những dư vị của cà phê trên đầu lưỡi, như muốn đi cùng với những cơn gió heo may. Và rồi tôi nhận ra cuộc sống này thật đẹp, đẹp như chính những nỗi buồn của tôi. Chiều nay, tôi lại lang thang, vay mượn những hạt mưa mùa thu làm nỗi nhớ, mượn chút sen cuối mùa và một nơi quen thuộc để lại được hòa quyện cùng cà phê, để lại được suy tư và mơ mộng.

P.A   
(SDB18/09-15)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách