Mai Văn Phấn - Phạm Đức Mạnh - Hồng Vinh - Nguyên Ngọc - Tôn Nữ Minh Châu
Minh họa: Nhím
MAI VĂN PHẤN
Bông hướng dương
Lội
Qua sương mù
Chậm chậm
Tranh phong cảnh
Cây bạch đàn không biết
Hồn mình
Dưới lòng sông
Giữ chiếc lồng
Con chim cuối cùng
Bay đi
Tôi đóng chặt cửa
Cây quanh nhà
Đêm
Co chân lơ lửng
Đợi khu vườn trôi qua
PHẠM ĐỨC MẠNH
Đưa gió qua sông
Cuốn trời
đưa gió qua sông
thương người vớt từng vỏ nắng
lõm sóng khỏa sương trầm mặc
mắt cay bên lở, bên bồi
Đưa gió qua sông
vuốt thao thức ngả vào lòng mẹ
thỉnh nhân từ quàng cổ tiếng chuông
xóa vết thương chớp bể mưa nguồn
róc phận nghèo bầm nát
Qua sông
đời gió khát bay lên
gấp lại bước chân hằn sâu ký ức
những ước mơ ủ trong cát bỏ quên
tiếng sáo đứt hơi miền hoang quằn quại
Đưa gió qua sông
vận đổi sao dời
thay đắng cay buốt lạnh kiếp người
tan bão lòng thắp lửa màu hoa gạo
mùa yêu thương tràn về
Mây thơm
nở trắng hương quê
thời gian hòa âm tiếng hát
lời ru dịu mát trưa hè
ánh trăng gù nỗi nhớ
Ngửa mặt…
đưa gió qua sông
quay đầu.
HỒNG VINH
Lá thì thầm hỏi chuyện ngày xưa
Đã bao lần hẹn về thăm phố cũ
Ngọn gió thu hiu lạnh phất phơ
Hoa phượng đỏ trở mùa tàn úa
Lá thì thầm hỏi chuyện ngày xưa
Con đường này biết bao dấu chân qua
Có còn nhớ từng cặp đôi chầm chậm bước
Ngày tựu trường áo dài ai tha thướt
Để hồn ai vương vấn thuở mới quen
Màu trắng ấy cứ ngời trong ký ức
Buổi chuyện trò sao lòng bỗng bồi hồi
Ngập ngừng nói ngập ngừng cười e ấp
Chiếc nón bài thơ Huế đẹp dáng người
Ắp trên vai một vùng trời quá khứ
Điểm tô đời trên mỗi bước chân xa
Tăm tắp quá bến thời gian mờ mịt
Vẫn thương hoài ảo ảnh dẫu phôi pha
NGUYÊN NGỌC - TÔN NỮ MINH CHÂU
Dấu hài
Yêu thương mơ mộng người ơi!
Nhớ đêm vằng vặc trăng khơi suối nguồn
Ánh hồng pha tím cầu vồng
Chiều hoang biền biệt hoàng hôn phai dần
Tìm về nỗi nhớ bâng khuâng
Trăng xưa vẫn tỏ cõi lòng còn vương
Rừng mai gió thoảng đưa hương
Ngạt ngào mái tóc thân thương thuở nào
Ai đi nhuộm tím trái sầu
Nụ tầm xuân nở tìm đâu dấu hài
Mắt nhìn theo cánh chim bay
Phút giây trống vắng hồn ngây ngất buồn...
(SDB18/09-15)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi