Phan Văn Chương - Lê Thành Văn - Vũ Dy - Đỗ Tấn Đạt - Huỳnh Thuý Kiều - Lê Cát Tường - Lê Viết Xuân
Tác phẩm "Tình quân dân" (sơn mài) của HS Nguyễn Đăng Sơn
PHAN VĂN CHƯƠNG
Trở lại làng Vây
Người lính già lần tìm vân tay mình trên tháp pháo
trên vòng quay ngót nghét mấy chục năm
nỗi đau
chưa thôi rỉ máu
người đàn bà Vân Kiều
cũng nhận ra vân tay mình trên tháp pháo
nhớ mỗi lần tiếp đạn
chạm ánh mắt
tìm
tọa độ
thai nghén giữa cuộc chiến
đứa trẻ lớn lên vít nòng pháo xuống đất
thiếu nữ mặc váy may bằng sợi gió
may từ nỗi nhớ vu vơ
tủm tỉm nhìn đồi non
trùng điệp
nhìn tháp pháo rực ngôi sao lửa
còn dấu vân tay người đàn ông
trời xanh
chưa từng xanh thế.
LÊ THÀNH VĂN
Những bức tường hoang liêu Tam Đảo
Những bức tường hoang liêu Tam Đảo
chiều từng chiều phai
tôi ngồi nghe
âm âm lời đá nói
Đá nói
về những ngôi biệt thự mờ sương
ơi đào nương ca nhịp phách đàn
ơi quan ba
ơi tướng lĩnh
ái ân giờ một cuộc mây tan
Những bức tường
rêu đã mờ xanh
trăng cổ thụ soi đêm về lạnh lẽo
đâu chén rượu xập xình
thơm làn hương tóc rối
ai bỏ thị thành về Tam Đảo du ca
Những bức tường
rồi thiên thu gió về với gió
phế hoang từ độ chiến chinh tàn
ôi nước mắt nào chờ nhau hội ngộ
cố tri biền biệt giấc mơ buồn
Những bức tường
tôi nằm mơ thăm thẳm ngực mình
một tiếng vọng hú lên khắc khoải
mai rồi nơi tôi về đây
đá lại nói điều gì cùng hậu thế
có ai còn nghe như tôi không
từng phiến chiều tàn phai úa rụng
khi những bức tường chìm dần vào bóng tối
lặng câm?
VŨ DY
Hàm ngôn mùa đông
ngang vầng trăng mùa hạn
về im như con ve mùa lạnh
nhìn khuya đỏ màu tường vi
ký ức là những tụng ca dẫn dụ người
rêu rao nỗi buồn sang trọng
chiều ngang qua nhòe nhoẹt từng mảng nâu buồn
mưa trên phiên khúc nổi chìm
trên vai ngôi nhà màu hồng trĩu nặng
mùa lá sắp đặt vô tình
Kỷ niệm sắc như dao
trên từng bậc đá chẻ
tháng ngày ẩm mốc
những hàm ngôn mùa đông
chắc gì người đã hiểu
bếp lửa hàng quán ngoài kia mưa hắt
chập chờn tháng ngày đã mất
ly rượu ấm ngồi tàn khuya
áo măng tô lật cao cổ
cứ ngỡ gọi về
người đi đêm nay
bóng vắt ngang bậc cửa
nghe một lần xướng tên
ĐỖ TẤN ĐẠT
Dòng sông cũ
và người gác cổng tình yêu
người gác cổng trời đã về
trước lúc hoàng hôn
bên dòng Ngân hà mây chiều sập xuống
tôi như con ngựa chứng quỵ xuống bóng em
ngày vỡ đôi Ô Thước
như mảnh trăng ghim đáy thuyền độc mộc
thủng tràn một biển cô đơn…
trong nỗi nhớ của sớm mai ồn như thác chảy
những bông bọt nước như tình yêu vô lượng
nở hết một lần đá gành cheo leo…
không còn dắt tay nhau về phía cỏ lau bạt ngàn
những đồi sim bắt đầu tím
trong một chiều gió về tái hợp sông xanh
đừng vuốt tóc trầm mây trắng
sao không hôn nhau lần nữa?
một lần hết thảy cho đi
trong ngôi nhà có bốn vách mùa đông
ai đốt lửa hạnh ngộ?
cháy cho nhau hết tàn tro này…
người gác cổng trời đã khóa cửa khu vườn trái cấm
trong một đêm trăng rơi
trên nóc nhà thờ
em chuông vàng cổ tịch
ngân vào tôi
câu kinh nửa mùa…
HUỲNH THUÝ KIỀU
Dư âm
Mùa lăn theo ngọn chướng
Sáng nay heo may đậu trên phím đàn
Gõ dư âm tiếng bầy chim tránh rét
Kẻ khuông nhạc buồn về phương Nam
Biển cuối trời nôn nao sóng
Em áo mỏng run bờ vai
Nhặt làn gió trên dư âm liếp cỏ
Em hứng nắng xanh mùa lũ
Nhuộm phù sa châu thổ lên nỗi buồn
Khâu ngàn vạn lá tràm U Minh
thành tấm áo ngày đông trốn bấc
Mùa đông nữa lại về
Niềm vui bò qua nụ cười
đẩy thời gian tận cùng phía vô thanh
Loạng choạng
Dư âm tuột khỏi lòng bàn tay
Nghe rõ tiếng mùa thở dài thậm thượt…
LÊ CÁT TƯỜNG
Có ai xưa ấy
Có ai xưa ấy cầm hương đợi
Chờ ta lưu lạc nước non về
Đời trăng như thể chưa từng khuyết
Mà khuyết giữa trời một mảnh khuya!
Đò ơi... Ai gọi mà hoang quá...
Bên kia bờ sóng bóng ai chờ
Sông trôi như thể chưa từng giạt
Chiều giạt phương này một mảnh xưa!
LÊ VIẾT XUÂN
Đêm Pleiku
Đêm như thực như mơ
Mấy bóng đèn khuya lúc tỏ lúc mờ
Ngoài hiên mưa rơi thánh thót
Mưa nói gì mà gió ngẩn ngơ
Chợt hiện về nỗi nhớ vu vơ
Đôi mắt em nhòe mưa đêm ấy
Tình ca Tây Nguyên em hát hay đến vậy
Ai đỏ mắt trông chờ mà tức tưởi mưa rơi..
Mưa bản nhạc không lời
Thấm vào tím đất ba gian khô khát
Điệp trùng rừng cà phê sây hạt
Hoa giã quỳ vàng rực những chiều hoang..
Thoảng như hơi thở mơ màng
Lắng vào tôi nỗi buồn da diết
Em ở nơi đâu giờ này có biết
Có một người thao thức, đếm mưa rơi.
Pleiku, 24/7/2018
(TCSH358/12-2018)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi