Thơ Sông Hương 09-16

16:17 30/09/2016

Hoàng Vũ Thuật - Đỗ Văn Khoái - Đức Sơn - Nguyễn Đông Nhật - Nguyễn Ngọc Phú - Hường Thanh

HOÀNG VŨ THUẬT

Đảo-một-mình

Ngọn nến anh mang theo cháy từ Tam Đảo
lửa của năng lượng tình ái
âm ỉ ngày và đêm
giọt máu cuối cùng lặn sâu bầu ngực
chiếc cầu bắc qua bóng tối
dòng sông ngừng chảy đã lâu đọng thành đá tảng
li ti cát trắng niềm mong đợi giọt nước mắt em


thành phố không vỉa hè không có người đi bộ không cây xanh
mùi cá thơm thập thò đậu lên vai áo
lẫn giữa mái ngói nham nhở
một căn nhà bã trầu
ngọn nến giờ là chủ nhân là thân xác là mặt trời của anh
tìm đâu con còng gió bạn bè quen thuộc
tìm đâu giọng nói nghìn lớp sóng trên cao


một nửa thành phố chết một nửa tinh cầu mọc rễ
em đặt tên Đảo-Một-Mình
ta xây lâu đài bằng vệt sao đầy đặn kiêu hãnh
giữa ngã ba đường những điều cấm kị
câu thơ thắt nút
thơ hay sợi dây vô hình khắc nghiệt
buộc anh và em và chằng chịt hờn ghen


em bảo không gian thời gian ranh giới những khái niệm
chẳng có gì là thật
sự thật đang bay đang bay đang bay
đôi cánh nhiệm màu
em trải mình trong chiếc áo mỏng màu rêu
ban mai trôi đi vội vã sang chiều
một vầng trăng nến sáng.




ĐỖ VĂN KHOÁI

Về thôi

Về thôi ta ơi! với phố
Về với góc đời lặng im
Khói sương nhiều khi bỗng nhớ
Lại nôn nao dậy đi tìm


Về thôi ta ơi! với gió
Với đêm trăng treo cửa thành
Mùa sen như vừa kịp nở
Còn ai thao thức đợi mình?


Về thôi ta ơi! nếu lỡ
Đã yêu là phải mong chờ
Về thôi ta ơi! nếu sợ
Đã đi là mãi quên về


Về thôi ta ơi! với cỏ
Ngả lưng mới biết là mình
Đêm đêm tiếng chuông thầm nhắc
Tất cả đều là mong manh




ĐỨC SƠN

Đá này

Đá này xanh thẫm tháng năm
Đá xanh tuổi đá, mình đong tuổi mình
Đá xanh rì, tuổi rêu chi
Mái tóc trơ đá
Giấc mơ hương ngày


Rừng biên cương, đá gọi tên nay
Nắng xuyên kẽ lá, chợt say môi hiền
Đá hòa tấu, đẹp thiên nhiên
Hoa khoe mắt đá, mùa chan chứa mùa


Đá này là nơi đã từng
Lâng lâng gối đá, góc rừng lô xô
Đã từng sương trắng, phấn ngô
Đã từng gạo hẩm, muối chưng mặn mòi
Đã từng trèo đá sá chi!
Đã từng chung bát canh suông, nói cười
Đã từng gột áo, giặt sương
Đã từng ngụp lặn suối ngàn đá chông
Đã từng miền nhớ khói lam
Bếp thơm ngô nướng
Linh thiêng cổng trời


Bạn bè tôi, rừng núi ơi!
Đá giăng giăng lũy
Cho ngày bình yên.




NGUYỄN ĐÔNG NHẬT

Nhẩm đếm

Đôi khi mơ giấc mơ của đá
giữa không tên lặng suối ngàn.


Đôi khi hát bài ca buồn
Lời nôn nao bỗng nghẹn.


Đôi khi quên ngày vui
Tình em đã tắt.


Đôi khi không còn
mơ giấc quên.




NGUYỄN NGỌC PHÚ

Chuyển mùa…

Nhóng nhánh mắt chuồn chuồn bay thấp
Cỏ gà rưng rức lối gai
Váng trứng rộ tăm tăm mùa cá đẻ…


Tôi khúc xạ rong rêu qua những miền ký ức
Những đường cong nhu nhú nảy mầm
Em - núm vú ứa ra mùi sữa lúa…


Hình như mùa đang trở
Hình như tôi đang ngậm đòng đòng…




HƯỜNG THANH

Nhóm lửa nghe khan hát

khan ơi, ngồi nhóm lửa cùng tôi
khi chung quanh chẳng nào vành tai bản làng
ở bên lửa, người huơ những ngón xương Amah
đừng buồn khan ơi


khan hát đi, lửa sẽ vui mừng
tôi được nghe khan, dù chỉ mình soi gương vào đám lửa
những người trẻ rời xa khan dưới êlan rộng
vắng đi vành tai làm trí nhớ mất giọng mùa năm


mlam buồn lắm, cây rừng chỉ biết chỉ biết ngửa vào sử thi
khi chung quanh chẳng nào câu ru bằng lời hát cho đứt nối
khan ơi mọi thứ
vẫn muốn nghe khan hát trong mưa
a mưa…


những ngón xương Amah rung lên rung lên mùa thu
khi chung quanh nếp nhăn rơi lấm tấm
khan hứa với tôi, khan sẽ không như H’drah Jan cuối cùng
bên ánh lửa trong nơi rủ mù chỉ có khan làm ấm


khan ơi đừng đi vào lớp tro tôi…

-------------
* khan: sử thi kể bằng tiếng Ê-đê.


(TCSH331/09-2016)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang

  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.