NGUYÊN NGUYÊN
Tôi nghe thấy tiếng bước chân của bóng tối, bên thềm cửa. Chút ánh sáng của ngày tàn bị hút tuột xuống cuối đường hầm tăm tối, âm thanh vọng lại nghe khô khốc và buồn bã vô cùng.
Minh họa: NGUYỄN DUY LINH
Cảm giác đó - giống như một thanh kim loại nhỏ rơi xuống trên nền gạch đã lạnh ngắt. Và chỉ vài giây sau thôi sẽ chẳng thể nghe thấy gì, ngoài sự thinh lặng đến đáng sợ.
Tôi quay mặt lại về phía chiếc giường, trong bóng tối đen đặc. Tôi đinh ninh đó đúng là hướng đã kê chiếc giường, trong căn nhà nhỏ tồi tàn của cha tôi. Căn nhà chỉ kê độc một chiếc giường, còn bao xung quanh là sách. Những cuốn sách lớn nhỏ khác nhau, dễ dàng ngửi thấy mùi mối mọt, ẩm mốc mỗi khi mưa xuống. Nhưng rốt cuộc, khi ấy, tôi đã chẳng cảm thấy gì. Bởi trước mặt, chỉ là một khoảng không. Bóng tối câm lặng đang dãn nở với tốc độ khủng khiếp. Giá như, tôi ước rằng, mình có thể nghe thấy tiếng trở mình mệt nhọc như mọi khi của cha.
Đoạn, tôi quyết định đứng dậy, mở cửa và đi thẳng ra phía bên ngoài. Trời đang mưa rất lớn.
Cuốn sách khổ lớn, cũ kỹ đang lật giở trước mặt tôi. Vô hồn. Vẫn chưa đọc được dòng nào, kể từ khi cơn mưa bất chợt kia đã xô đẩy tôi vào cái thế giới yên tĩnh này - thư viện. Chính xác là khi đó tôi đang ngồi trong thư viện thành phố. Có một vài người cũng chịu chung hoàn cảnh như tôi. Họ đều đang cần một chỗ trú, nhưng tuyệt nhiên không ai có hứng thú đọc một cuốn sách trong khi đợi mưa tạnh như tôi. Tất cả đều đang rất vội. Một bà nội trợ tay xách nách mang, thảng hoặc lại đưa gương mặt béo phị lo lắng của mình về phía khung cửa sổ lớn. Vẫn không có dấu hiệu tạnh mưa.
Tôi trân trối nhìn vào cuốn sách đang lật giở trước mặt mình lần nữa. Hình ảnh một con ngựa già hom hem, gầy dơ xương đang hiển hiện trước mặt. Chẳng hiểu sao khi ấy, hình ảnh đó lại khiến tôi liên tưởng tới cha, khi ông đang dầm mình trong cơn mưa chiều cuối tháng Mười năm ngoái. Khi đó, tôi tiện đường nên đã có ý định ghé thăm căn nhà nhỏ của ông. Ông luôn sống một mình. Khi thấy tôi đang chằm chằm nhìn ông với vẻ mặt ái ngại, ông cũng không biểu lộ gì trên gương mặt chằng chịt những dấu chân chim. Rất có thể nước mưa đã làm cho mọi thứ trở nên rõ ràng hơn. Khoảng vài phút sau đó, chúng tôi đi vào nhà. Cả thân người mặc áo bành tô rộng thùng thình của ông ướt sũng, nước mưa từ trên những nếp áo nhỏ xuống thành vũng trên mặt sàn bóng loáng. Tôi định bảo cha là hãy đi thay quần áo kẻo cảm lạnh, nhưng ngay sau đó, ông ngồi thẳng vào bàn giấy và bắt đầu viết thứ gì đó. Cha tôi từng viết rất nhiều, và tôi cũng chưa bao giờ được đọc chúng. Cha cũng chưa bao giờ có ý định sẽ chia sẻ điều đó cho tôi. Tôi để lại một vài thứ cho ông rồi sau đó đi về.
Một tiếng sấm váng trời khiến cho khung cửa kính khẽ rung lên, mặt người đang bà béo phị biến từ sắc đỏ hồng sang trắng bệch. Bà càng nắm chặt túi xách trên tay của mình hơn. Tôi nhìn lại hình ảnh con ngựa già một lần nữa, nhưng mọi thứ nhòe đi rất nhanh. Hình ảnh cha tôi trong chiếc áo bành ướt sũng chợt hiện về một lần nữa, nhưng rồi nhanh chóng vỡ tan. Mưa càng lớn hơn. Đã gần 9 tháng kể từ ngày cha tôi biến mất.
*
Gã thám tử có gương mặt đen sạm đang ngồi đối diện, nhưng gã không nhìn tôi vì đang mải mê ghi chép thứ gì đó trên cuốn sổ cũ kỹ đã ố vàng đôi chỗ. Mãi một lúc sau gã mới ngẩng lên nhìn, nhưng tôi lại hướng ánh mắt của mình về phía đại lộ hoang vắng. Trời vừa mới mưa xong, mặt lộ loang loáng nước, thi thoảng một vài chiếc xe hơi chạy vụt qua khiến nước văng tung tóe khiến một vài người đang đi trên vỉa hè khó chịu ra mặt. Tôi đang bận hút thuốc. Gã lên tiếng.
“Tôi đã thu thập được một vài thông tin…”, gã nói, “cụ thể hơn là một vài hình ảnh?”
“Hình ảnh ư?” Tôi dụi điếu thuốc vào gạt tàn rồi hỏi.
Gã gật gù, chưa vội nói, vẫn làm ra vẻ ỡm ờ thường thấy.
“Nhờ trích xuất hệ thống camera trên được, chúng tôi đã thấy được lộ trình của ông ấy.”
Gã nói với vẻ đắc ý hiện rõ trên gương mặt có phần vàng ệch tương đồng với màu những ngọn đèn đang rọi xuống đại lộ.
Lộ trình ư? Tôi thầm nhủ. Cha tôi chưa bao giờ làm việc gì có lộ trình cả. Tất cả đều khởi sự từ tính cách ngẫu hứng của ông. Không ai biết trước được, ông sẽ làm những chuyện gì.
Tôi châm thêm một điếu thuốc nữa, rít một hơi thật dài rồi cứ thế nhả ra bầu không khí đậm đặc. Thảng hoặc, từ bên trong một con ngõ tăm tối và chật hẹp tôi có thể nghe thấy tiếng kêu than ai oán của người thiếu phụ. Đó luôn là một khúc ca buồn thảm!
Tôi nhìn vào gương mặt vàng ệch của gã một lần nữa, như thể đang khao khát những gì mà gã đang nắm giữ, một chút manh mối về cha tôi.
Lần này, gã không thèm chơi trò mèo vờn chuột nữa. Có lẽ gã cũng mệt rồi, cần về nhà và làm một giấc tới tận sáng hôm sau.
Gã trình bày tường tận mọi sự về cái “lộ trình” của cha tôi mà gã cùng những người cộng sự đã thu thập được. Họ nói, vào buổi sáng một ngày Chủ nhật, cha tôi ăn bận chỉnh chu với áo măng tô xám như mọi khi, nhưng khác là vào hôm ấy, ông có đội thêm chiếc mũ bê rê màu nâu trên đầu, cổ quấn một chiếc khăn len mỏng màu xanh mòng két. Chân đi giày tây bóng loáng. Ông ra khỏi nhà và cứ thế đi thẳng về đại lộ chính, hướng thẳng vào trung tâm thành phố ở quận bên. Họ đã nhìn thấy ông ấy vào trong một tiệm sách cũ nhỏ trên đường, rất có thể nơi đó vẫn bày bán một tác phẩm vô danh, không mấy được đón đọc của ông. Khoảng mười lăm phút sau, họ thấy ông ấy đi ra mà không cầm trên tay cuốn sách nào. Ông ấy cứ đi thẳng về phía trung tâm thương mại sầm uất.
“Trung tâm thương mại ư?”, tôi ngạc nhiên ngắt lời gã thám tử.
Gã gật gù như thể đã biết chuyện từ lâu, và chỉ chờ thời cơ để thuật lại cho tôi nghe.
“Sau khi trích xuất hệ thống camera thì chúng tôi đã ghi nhận được thông tin.”
“Ông ấy vẫn đang ở đó từ trước tới nay sao?”
Lúc này, gương mặt của gã thám tử đột nhiên trở nên trầm tư hết sức, dù biết trước rằng, thể nào tôi cũng sẽ hỏi câu hỏi này nhưng có lẽ gã vẫn không sao tìm nổi một đáp án chính xác khiến tôi hài lòng. Sau cùng gã chỉ thở dài, lắc đầu.
“Chúng tôi cũng không biết nữa.”
“Không biết là sao?”
Gã thở dài ngao ngán một lần nữa, rồi mới đáp lời.
“Ông ấy đã ngồi ở quảng trường Ngọ Môn một hồi lâu, sau đó quyết định đi xuống dưới, ý tôi là khu vực mua sắm chính của trung tâm. Đi dạo dọc hành lang khu thời trang, rồi sau đó đi vào khu vực vệ sinh… và biến mất.”
“Và biến mất ư?”, tôi đột ngột hỏi lại. Sự tò mò khiến tôi thấy khó chịu vô cùng. Còn phía đối diện gã thám tử cũng có vẻ không thoải mái gì.
Gã thám tử gật đầu khẳng định.
“Đúng thế! Mặc dù chúng tôi đã tiến hành kiểm tra hệ thống an ninh xung quanh để xem liệu ông ấy có đi vào một góc khuất nào đó, nhưng hoàn toàn không thấy. Đúng hơn, khi vào trong khu vệ sinh thì không thấy ông ấy trở ra nữa. Hoàn toàn biến mất, như làn khói mỏng tan vào không khí.”
Tôi im lặng, thở dài, chán nản nhìn ra phía bên ngoài mặt lộ. Vài chiếc xe phân khối lớn phóng vọt qua khiến những vũng nước tù đọng trên vỉa hè văng tung tóe. Một vài người đi đường đã la hét chửi bới, một lúc sau trả lại không gian thinh lặng đến vô tận. Làm sao tôi có thể tiếp nhận những chuyện này theo một cách bình thường được chứ?
*
Tối hôm đó, tôi quyết định ghé căn nhà của ông một lần nữa. Trước đó vài hôm, tôi đã nhận được một lời đề nghị về công việc, đồng nghĩa tôi sẽ phải chuyển khỏi thành phố này. Đúng với mong muốn của tôi bấy lâu. Đúng hơn là khao khát rời khỏi cái vòng lẩn quẩn này.
Nhưng trước khi nghĩ tới chuyện đó hay đi đến một quyết định, tôi sẽ thăm căn nhà của cha. Có lẽ là lần cuối. Tôi mong vậy, và chuyện này sẽ phải kết thúc theo một cách nào đó thôi. Bất kỳ.
Khi tôi đến, người bảo vệ già đang thiu thiu ngủ, tôi cố gắng đánh tiếng nhưng vẻ như ông ta đang say giấc nên tôi đã đi thẳng lên phía trên nhà. Như thường lệ, hành lang vẫn tối om vì bóng đèn chưa thay. Tôi dò dẫm từng bước lên từng bậc thang một. Cầu thang nhỏ và đôi chỗ bốc thứ mùi khăm khẳm khó chịu vô cùng. Lên lầu năm, tôi dừng lại để thở, vì đã thấm mệt. Tôi có xách theo một vài chai bia và mồi nhậu. Tôi và cha chưa bao giờ có dịp ngồi lại với nhau để uống một ly. Ông không uống rượu, và lần nào tới cũng mời tôi thứ cà phê đắng ngắt khó uống. Khi ấy, ông ngồi bên bàn giấy, còn tôi ngồi phía sau lưng ông trên một chiếc sô pha cũ nát mà một người quen nào đó đã tặng cho ông nhân dịp họ chuyển nhà đi chỗ khác. Cha luôn vui vẻ nhận những thứ như vậy, chất đống trong nhà, dù có thể ông chẳng bao giờ cần dùng tới.
Đôi lúc, trong những dịp như thế, chúng tôi hầu như chẳng trò chuyện được gì trong những lần viếng thăm ngẫu hứng. Ông cũng không tỏ vẻ phiền hà nếu như tôi tới có phần hơi đột ngột. Cũng có thể, khi ấy, ông đang bận viết thứ gì đó trên giấy, tôi sẽ để yên cho ông hoàn thành công việc của mình. Phần tôi, tôi sẽ ngồi yên trên ghế sô pha, tay chán nản lật giở một cuốn sách bất kỳ ở cái giá nhỏ bên cạnh - những cuốn sách cũ kỹ, giấy ngả vàng, chữ nhỏ li ti, khiến tôi thấy buồn ngủ ngay sau khi đọc được vài trang. Có những lần, tôi đã ngủ say trên chiếc ghế của ông tới khi trời sập tối. Cha cũng không lấy mền đắp cho tôi, chỉ là những chuyển động khe khẽ của ông sau khi hoàn thành công việc đã vô tình đánh thức. Mỗi lần ấy, tôi tự hỏi, cha đã viết được những gì vào ngày hôm đó.
Tôi mở cánh cửa đi vào trong căn nhà của cha tôi. Mùi ẩm mốc xộc thẳng vào mũi, tôi không lấy gì làm khó chịu vì đã quá quen thuộc với tất cả thứ mùi đó qua những cuộc viếng thăm.
Tôi bật đèn lên, thứ ánh sáng vàng đục nhiễu ra không gian tù túng như mọi khi. Những chuyến viếng thăm căn nhà nhỏ trở nên dày đặc hơn sau sự kiện cha tôi biến mất. Tôi cũng không hiểu sao mình lại hành xử như thế, như một thói quen. Nhưng thú thật khi giam mình lại trong căn nhà nhỏ của cha, tôi có cảm giác bình yên tới lạ thường, như thể khi ấy nó nghiễm nhiên trở thành một phần của tôi hoặc ngược lại.
Tôi đặt túi đồ vừa mới mua ở siêu thị xuống cái bàn thấp bên cạnh ghế sô pha, chủ yếu là thức ăn nhanh và một vài lon bia đã được làm lạnh trước đó. Tôi thản nhiên bật nắp ngồi uống một hơi thật dài, khoai khoái ngả mình ra sau chiếc ghế cũ kỹ rồi nhắm mắt lắng nghe thứ thanh âm nào đó, khe khẽ trong không gian như từ xa vọng về. Tôi cũng không rõ lắm, cũng chẳng thể phân biệt, nhưng hành động đó luôn khiến tôi thích thú vô cùng. Tôi uống hết một lon, uống thêm một lon nữa, rồi lon nữa. Kết cục tôi chìm sâu vào trong giấc ngủ. Tối hôm đó, tôi lại mơ thấy cha trong một hình hài trẻ hơn, nhưng ông không trông giống tôi. Chẳng hiểu sao, khi ấy tôi cứ đinh ninh người đàn ông trẻ măng đứng bên kia đường là cha mình.
Ông vẫn mặc một chiếc áo măng tô, đầu đội mũ phớt. Gương mặt ông đờ đẫn, dõi ánh nhìn theo dòng xe cộ đang lặng lẽ di chuyển như một thước phim quay chậm trên đường phố. Và đích xác ông chính là một nhân vật trong khung cảnh đó. Ông đẹp đẽ, đứng đó, một mình. Khi ấy, chẳng hiểu sao trong lòng tôi lại dâng lên một cảm giác khó tả, đúng hơn là khó chịu. Bởi lẽ, tôi chưa bao giờ nhìn thấy bản thân mình trong thân thể đạo mạo của người đàn ông ấy.
Tiếng chuông nhà thờ gần đó đã đánh thức tôi vào buổi sáng ngày hôm sau. Người tôi mỏi nhừ, hai chân thì tê dại đi. Tôi cố gắng lết dậy để về căn nhà mình, và sửa soạn, chuẩn bị cho buổi hẹn quan trọng của tôi. Tất nhiên là về công việc.
Người đàn ông, có lẽ, chỉ hơn tôi một vài tuổi đang ngồi đợi trong một quán cà phê gần trung tâm thương mại. Tôi đã nhận ra anh ta từ xa. Rồi tôi bước đến, chào hỏi một cách lịch sự, trước đó, chúng tôi đã trao đổi với nhau qua thư điện tử. Tôi đã nhận được một lời đề nghị.
“Cậu trông trẻ hơn ở trong ảnh đấy?” Anh ta lên tiếng, rồi chìa tay ra. Tôi bắt tay một cách lịch sự, rồi ngồi xuống.
“Cảm ơn anh. Anh cũng vậy.”
“Tôi già rồi, làm sao mà chạy theo cánh trẻ các cậu được.” Anh ta bông đùa. Tôi cố gắng cười đáp lại một cách tự nhiên nhất có thể. Hy vọng anh ta không nhận ra sự gượng gạo ở tôi.
Thấy tôi im lặng nên anh ta tiếp tục:
“Tôi nghĩ đó là một công việc phù hợp”, anh ta đi thẳng vào vấn đề, “nhất là với cậu. Ít ra cậu cũng đã có kha khá kinh nghiệm ở vị trí tương tự rồi, nên khi vào việc sẽ không cảm thấy bỡ ngỡ, và không phải đào tạo lại từ đầu. Đó luôn là ưu tiên hàng đầu trong chiến dịch tuyển dụng nhân sự của công ty chúng tôi. Cậu thấy công việc thế nào?”
“Tôi nghĩ mình không có kinh nghiệm gì nhiều đâu, chỉ là tôi đã làm vị trí đó trong suốt nhiều năm mà thôi.” Tôi thành thực nói, dù thật sự nó chẳng hề có lợi trong một cuộc phỏng vấn trực tiếp như thế này. Những gã sếp lọc lõi không phải là những tay gà mờ và họ có lẽ, chán ngấy kiểu cách nói chuyện không sáng tạo. Nhưng rốt cuộc tôi vẫn thành thật.
Anh ta nở một nụ cười rồi nói.
“Đó là những thứ chúng tôi cần. Còn việc của cậu chỉ là quyết định thôi. Cậu có cần suy nghĩ thêm gì không.”
“Tôi e là không.”
“Vậy coi như chúng ta đã thỏa thuận rồi nhé”, anh ta nói, rồi chìa bàn tay mình ra. Tôi bắt tay anh ta, đi đến một thỏa thuận, có lẽ là sẽ thay đổi cuộc đời tôi vĩnh viễn.
“Tôi sẽ gửi cho cậu bản hợp đồng lao động để cậu đọc trước, sau khi cậu đến nhận việc vào thứ Ba tuần sau thì chúng ta sẽ thực hiện ký. Bên trong hợp đồng đã ghi đầy đủ, chi tiết về công việc, lương thưởng cũng như chế độ đãi ngộ. Nếu cậu có thắc mắc gì thì cứ gửi email lại cho chúng tôi nhé.”
Tôi gật đầu không nói gì. Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi kết thúc đột ngột bởi một cuộc điện thoại khác của anh ta.
“Cậu đã có chỗ ăn ở chưa?”
Tôi lắc đầu.
“Nếu vậy thì tôi sẽ gửi cậu tham khảo một số chỗ chúng tôi cho thuê lại với giá rẻ, giá nhà ưu đãi dành cho nhân viên của công ty.”
“Cảm ơn anh.”
“Chào cậu.”
Anh ta bắt tay tôi một lần nữa.
“Chào anh.”
Cơn giông buổi chiều hôm đó đã ngáng bước chân tôi quay trở lại căn nhà của mình. Tôi đã có dự định sắp xếp một vài thứ, mua một vài thứ cho chuyến đi. Có lẽ, tôi sẽ chẳng bao giờ trở lại cái thành phố buồn tẻ này thêm một lần nữa. Ý nghĩ đó đã thôi thúc tôi biết nhường nào. Nhưng cơn giông đã tới, kéo theo mưa và sấm chớp. Tôi chỉ có thể dừng lại tại ngôi nhà của cha, khi mưa ngày càng trở nên nặng hạt hơn. Nước đã ngập lênh láng ở một vài đoạn đường trũng.
Tôi quyết định đi lên căn nhà của cha để dừng chân nghỉ ngơi một chút, vì đã thấm mệt. Nhưng khi vừa mới bước lên những bậc thềm đầu tiên của cầu thang tăm tối, một ai đó đã nắm lấy cánh tay của tôi và níu lại. Tôi quay người, phía đối diện là gương mặt ướt sũng của gã thám tử - người đã cung cấp cho tôi manh mối về cha.
Khoảng mười lăm phút sau, chúng tôi lại ngồi đối diện nhau, giữa gian phòng khách chật hẹp của cha tôi. Bên ngoài trời mưa vẫn không ngớt, thi thoảng sấm rền lên khiến những khung cửa rung lên bần bật.
“Tôi phải tìm cậu ngay, không có cách nào khác.” Gã thám tử nói với tông giọng gấp gáp.
“Có chuyện gì mà anh gặp tôi đột ngột vậy?”. Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
Gã chẳng nói chẳng rằng mà lôi từ trong túi áo khoác thùng thình của mình ra một vật nho nhỏ. Đưa lại gần hơn thì tôi nhận ra đó là một cái ví da cũ kỹ. Tôi chưng ra gương mặt khó hiểu. Gã nói ngay.
“Đó là của cha cậu, chúng tôi đã tìm thấy gần địa điểm mà ông ấy ‘biến mất’”.
Tôi nhìn chằm chằm vào cái ví da cũ kỹ một lần nữa. Tôi chưa bao giờ thấy nó cả.
“Vì tính chất công việc nên chúng tôi mạn phép đã kiểm tra chiếc ví.”
“Các ông có tìm được gì không?”
Gã thám tử lắc đầu bảo không. Họ chỉ muốn giao nó lại cho tôi, vì dù gì tôi là người duy nhất có quyền sở hữu nó.
“Tôi e là chúng tôi không thể tiếp tục tìm kiếm được nữa. Tôi xin phép dừng công việc của mình tại đây, và gửi lại cậu số tiền đã đặt cọc trước đó.”
“Không cần”, tôi nói, “tôi cũng không có ý định tìm kiếm gì nữa, vì tuần sau tôi sẽ đi khỏi nơi này rồi. Tôi đã tìm được một công việc khác, và sẽ gắn bó lâu dài ở đó.”
Gã nhìn tôi bằng ánh mắt ngạc nhiên không kém.
“Cậu sẽ vĩnh viễn rời khỏi nơi này ư?”
“Tôi e là thế. Tôi không thể sống như thế này được nữa. Nếu như các ông có vô tình bắt được tin tức về cha thì vui lòng gọi cho tôi sau cũng được. Vì dù gì… trước sau ông ấy cũng sẽ ổn mà thôi.”
“Có lẽ, ngày mai báo chí sẽ đăng thêm thông tin này ‘một nhà văn bí ẩn biến mất’. Hẳn một bộ phận công chúng sẽ thấy hoang mang vì điều đó.”
“Tôi e là mình không thể để tâm thêm vào chuyện này. Tôi sẽ đi khỏi nơi này.”
Sau đó, chúng tôi không nói thêm gì nữa. Gã thám tử không chờ cơn mưa tạnh mà lao đi ra phía bên ngoài rồi biến mất vào trong bóng đêm, không một chút vết tích. Chỉ còn mình tôi ở lại trong căn phòng của cha. Và sau đó… thời gian đã trôi qua rất chậm. Tôi dễ dàng nghe thấy tiếng trở mình của màn đêm. Vô tận. Một lần nữa, quấn chặt lấy thân thể đang rệu rã, chỉ chực chờ đổ ụp xuống sàn nhà lạnh ngắt, loang loáng nước. Một lần nữa, hình ảnh xa xôi từ ký ức lại vọng về - cha tôi bận chiếc áo măng tô ướt sũng vì cơn mưa chiều cuối hạ. Nước từ trên chiếc mũ bê rê nhỏ xuống dưới sàn, từ chiếc áo nhỏ xuống, đọng thành vũng. Cha đứng yên bất động, như thể đã hóa đá. Tôi không thể gọi ông, vì có gọi ông cũng không thể nghe thấy. Tôi nghĩ ông đã chết, rất có thể, đó sẽ là tư thế chết kỳ quặc nhất mà tôi từng chứng kiến, từ thực tế mà không phải từ những bộ phim tôi đi xem vào ngày cuối tuần.
Tiếng sấm rền đánh thức tôi một lần nữa. Bên chiếc bàn lon bia uống dở nằm chỏng chơ, nước từ trong đổ ra khắp mặt bàn, nhỏ xuống cả cái thảm cũ kỹ phía bên dưới. Tay phải của tôi vẫn cầm nguyên cái ví của cha mà tay thám tử đã đưa trước đó. Tôi không có ý định sẽ xem nó. Tôi nghĩ sẽ phải cất nó đi, sâu trong hộc tủ, trong căn nhà tồi tàn này. Nhưng ngay sau đó, sự tò mò lại thôi thúc tôi, một lần cuối, kết nối với người cha mà tôi đã từng rất thờ ơ. Hoặc chính bản thân ông đã thờ ơ trước đó, rằng ông chỉ có một người con trai trên giấy tờ, về mặt di truyền. Ngoài những thứ đó, thì không còn là gì. Chúng tôi chỉ như hai con người xa lạ, đứng cách nhau một làn đường, và có rất nhiều xe cộ đang qua lại.
Tôi đưa chiếc ví lại gần nguồn sáng duy nhất trong căn phòng nhỏ. Tôi mở ra. Bên trong là một vài tờ tiền đã cũ, một chiếc thẻ ngân hàng, thẻ thành viên thân thiết của một siêu thị gần nhà, mà tôi nghĩ rằng, hẳn phải miễn cưỡng lắm ông mới đồng ý khai thông tin để làm thẻ. Tôi tìm thấy trong một ngăn phụ có một tấm ảnh, đã cũ kỹ, hẳn đã chụp từ rất lâu rồi. Trong bức ảnh một là tôi, người còn lại là cha. Tôi ngạc nhiên, không có bất kỳ một chút ký ức nào về chuyện này. Không rõ thời điểm chụp bức ảnh là gì. Trong đầu tôi, chỉ toàn những hoài nghi, vì chắc gì người trong bức ảnh là mình. Tôi nhìn chằm chằm bức ảnh một lần nữa, nhìn thẳng vào gương mặt nghiêm nghị của cha tôi. Tôi đã cố gắng tìm kiếm một chút kết nối từ đó, nhưng chẳng thể. Mọi nỗ lực trôi tuột vào trong bóng đêm. Mất dạng.
Tối hôm đó, tôi không mơ thấy cha, vì mọi lần hễ cứ qua đêm tại căn nhà là tôi lại thấy ông, trong bất kỳ bộ dạng nào, từ hoàn hảo cho tới tồi tệ nhất. Điều đó đã làm tôi khó chịu.
Tôi đã kiểm tra email và đọc qua khi trở về nhà mình. Một email với nội dung chi tiết nhất mà tôi từng nhận được từ trước tới giờ, tạm thời tôi không có thắc mắc gì cả. Vì ngay sau đó, tôi nghĩ tới chuyện sẽ đi mua một chút đồ dùng cá nhân để chuẩn bị cho cuộc sống mới.
Tôi đã chạy xe tới quận bên để mua sắm một vài thứ cần thiết. Khi ấy, trời mưa nhỏ, dư âm của cơn giông đêm qua còn sót lại. Kết quả bầu không khí trở nên âm u, buồn tẻ lạ thường. Trong lúc chờ đèn đỏ, thi thoảng tôi ngắm nhìn những gương mặt mỏi mệt trên xa lộ. Khi đi qua trung tâm thương mại, nơi mà người ta cho rằng, cha tôi đã biến mất. Tôi quyết định dừng lại, đậu xe ở gần đó, rồi đi bộ vào. Trời vẫn còn mưa lất phất.
Tôi nán lại ở một sạp báo ven đường, người ta đã đăng thông tin về cha tôi “Một nhà văn nổi tiếng biến mất không lý do?” Tựu trung người ta sẽ chọn đăng những cái tít nghe kêu nhất có thể, còn nội dung thì na ná như nhau. Người bán hàng hỏi tôi có cần mua một tờ không. Tôi lắc đầu, rồi tiến thẳng vào sảnh trung tâm thương mại. Một vài người đang đứng trú mưa.
Tôi đi vào, trung tâm mua sắm và giải trí nằm sâu dưới lòng đất, được thiết kế với ba tầng, hai tầng trên là khu tổ hợp mua sắm, tầng cuối cùng là tầng gửi xe. Tôi đi xuống theo thang cuốn. Trung tâm ngày giữa tuần vắng vẻ hơn thường lệ. Tôi đã đi một cách vô định, lướt qua những cửa hiệu rạng rỡ ánh đèn, rồi cố gắng mường tượng ra khung cảnh cha tôi đang bước đi dọc lối này. Qua những cửa hàng thời trang của các thương hiệu nổi tiếng, rồi khu ăn uống đầy những thứ mùi khác nhau. Tôi cứ bước đi mãi cho tới khi đôi chân mình mỏi nhừ. Tôi ngồi xuống một băng ghế, khẽ thở. Hai tay vẫn đút sâu trong túi áo khoác, đột nhiên tôi thấy người mình trở nên lạnh toát. Tôi không thể tưởng tượng ra hình ảnh của cha nữa. Rồi cuối cùng, tôi cảm thấy ngột ngạt, như thể luồng không khí trong lành phía bên ngoài khó có thể lọt vào trong phổi của tôi để đánh thức các cơ quan. Tôi quyết định đứng dậy, có lẽ, một vốc nước lạnh vào mặt sẽ khiến tôi tỉnh táo hơn rất nhiều. Nghĩ vậy, tôi đi thẳng vào phía nhà vệ sinh đối diện, đi sâu dọc một hành lang màu xanh. Tiếng nhạc réo rắt phát ra từ hệ thống loa trên trần, chắc chắn đó là một giai điệu quen thuộc, chỉ tiếc là giờ tôi chẳng thể nào nhớ nổi tên của nó hay là ai đang hát.
Tôi cứ để giai điệu đó quẩn quanh trong đầu mình. Tôi bước vào nhà vệ sinh. Không có ai. Tôi vặn nước, vã thẳng lên mặt, rồi tôi tự ngắm nhìn mình trong gương. Tôi thấy gương mặt cha, có lẽ, trong một khoảnh khắc nào đó, trong thoáng chốc. Tôi đi vào một căn buồng, không rõ số thứ tự. Tôi khóa cửa, rồi ngồi thừ trên bồn cầu. Tôi nhắm mắt, khe khẽ thở. Giai điệu ấy vẫn vang lên đều đều trong đầu cho tới khi dứt hẳn. Bỗng nhiên, tôi nghe một tiếng bụp rất lớn phía bên ngoài. Tôi đứng dậy, lao nhanh ra cửa. Hành lang tối om, không được thắp ánh sáng đầy đủ như ban nãy. Nhạc đã dứt. Mọi thứ trở nên im lìm. Tôi ra phía hành lang lớn. Không thấy một bóng người. Các cửa hiệu vẫn mở. Phía trước mặt một cửa hàng của Nike đang treo biển giảm giá sốc. Nhưng tuyệt nhiên, không có một bóng người. Chỉ mình tôi, lọt thỏm trong không gian sạch sẽ và sang trọng.
Tôi lao như tên bắn để tìm lối ra, nhưng khi tới gần nơi thì tôi lại thấy một hành lang khác dài hơn. Tôi cố gắng chạy, chạy mãi, rồi hoàn toàn lạc lối trong không gian này. Tôi muốn về nhà để chuẩn bị, vì tuần sau tôi sẽ rời khỏi thành phố này. Ý nghĩ đó, thôi thúc tôi tiến về phía trước, nhưng những hành lang cứ dài mãi theo những bước chân mỏi mệt của tôi. Khi ấy, tôi bỗng nghĩ đến cha, và cảm thấy nhớ ông ấy, một nỗi nhớ da diết hằn sâu trong tâm thức.
“Cha ơi!”
Tôi gào lên, nhưng đáp lại chỉ là sự thinh lặng và dãn nở của không gian đặc quánh sự cô độc này. Khi quay lại, nhìn vào những cửa hiệu rạng rỡ ánh đèn. Mắt tôi chợt nhòe đi.
N.N
(TCSH390/08-2021)
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.
THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.
XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.
PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...
PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.
QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.
XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.