PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Hà Nội
Tỏa bóng mát xuống tôi
Là bóng dáng uy thiêng của bao nhiêu thế hệ
Lồng lộng một vòm trời cao xanh đã ngàn năm với thâm nâu mái phố
Rợp tóc tôi là vòm me, vòm sấu
những chứng nhân xù xì mà tuổi lá rụng rơi quên mùa cũ…
Ngoài xa kia
những triền đê luống tuổi
giang tay ôm Hà Nội và ngẩng đầu hứng gió
Gió cuốn vào lòng tôi những dải ngô xanh mướt khua gươm
Gươm Long Biên xưa đếm nhịp cầu nhiều binh đao máu lửa
năm Cửa Ô hằn vết sẹo chiến chinh?
Sông Hồng sóng xoải nằm thở
In bóng dáng mùa mùa và ngàn xưa lam lũ
những người đàn bà từ muôn thuở
đòn gánh có còn vút cong chở hoàng hôn vào phố?
Phố mải miết những kiếm tìm thả ước mơ trôi dọc theo ý nghĩ
Những ý nghĩ về thế giới và hội nhập miên man
Bóng điệp điệp trùng trùng cờ hoa, một chiều thu lịch sử
Nước sông Hồng ngàn năm trôi loang loáng …
Ba mươi sáu phố phường Kẻ Chợ
tôi lạc bước cổ xưa cùng năm tháng
Hoa sữa thổi khát khao vào mắt đêm Hà Nội
Khoe những búp môi hôn đỏ chúm chím nồng nàn
Tóc ai xanh mát nước Hồ Gươm…
Từng giọt đêm Hà Nội chầm chậm chảy trong tôi
Chảy về quá khứ, chảy về hiện tại và chảy đến xa xôi
Như tình yêu bền bỉ của ngàn năm về trước
Tan loãng những heo may
Và người đạp xích lô đêm nay có chở thu thả dấu ngã lên trời?
Sóng Tây Hồ ngàn năm thầm thì vỗ vào tôi
Ướp hương đêm mùi hoa sữa ngày nào cho người đi biệt xứ
Và dấu bùn thơm còn ấp ủ
Hồn sen đất Việt nở bông trắng nhụy vàng
Nắng Cổ Ngư từng búp gió lênh loang…
Đêm se lạnh Đồng Xuân ru giấc phố nồng nàn
Em có về nơi tượng đài Vua Lý mà Hà Nội hân hoan?
Đêm ngàn năm tan chảy
Hà Nội dẫu thật gần, Hà Nội cũng thật xa?
Hà Nội ngày lửa cháy, Hà Nội dáng kiêu sa?
Hà Nội thức trong bạn, Hà Nội chảy trong ta?
Đêm trở dạ …
Thăng Long tóc còn xanh đã lẻ một ngàn năm ?
PTPT
(Hà Nội ngày 10/10/2014 - Kỷ niệm 60 năm ngày giải phóng Thủ Đô)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi