Suy nghĩ dọc đường

16:32 26/06/2012

LÊ TRÍ DŨNG

Tôi vẫn phải thưa với bạn đọc rằng suy nghĩ dọc đường thì bao giờ cũng trục trà trục trặc, lục cà lục cục, lủng cà lủng củng và nó cũng gập ghềnh theo nhịp bánh xe lăn, nhất là lúc qua ổ trâu, ổ gà...

Trung tâm Văn hóa Huyền Trân - Ảnh: internet

Tôi cũng không nhớ lần Nam hành này là lần thứ bao nhiêu trong đời nhưng lần nào cảm xúc cũng mạnh dù vẫn đi qua những địa danh cũ. Dịp tháng 4 này tôi lại Nam hành, điểm đến là Huế để dự cuộc hội thảo Mỹ thuật Bắc Miền Trung. Vì lẽ đó, nếu như Huế có được nhắc đến hơi nhiều, mong bạn đọc thể tất cho.

Huế - chính là Hóa đọc chệch ra, Thuận - Hóa là tên đã được đổi từ châu Ô, châu Lý. Thuận là châu Ô (Quảng Trị) và Hóa là châu Lý (Thừa Thiên) ngày nay. Hai châu Ô, Lý năm 1306 vốn là của Chiêm Thành, song nó được vua Chiêm là Chế Mân dùng làm sính lễ cho nhà Trần để lấy công chúa Huyền Trân (con gái Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông bấy giờ). Nhưng than ôi! Duyên lửa của ông vua Chiêm Thành hào hoa với hoàng hậu Đại Việt chưa được bao lâu, dù đã hạ sinh được 1 hoàng tử khôi ngô thì một năm sau ngày cưới, nhà vua băng hà. Theo tục lệ của người Chiêm, hoàng hậu phải hỏa thiêu theo chồng. Tiên liệu nguy cơ đó, triều đình nhà Trần phái Nhập nội hành khiển, Thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung vào cứu Huyền Trân. Theo đó, phái bộ xin Chiêm thành cho hoàng hậu ra tế ở bờ biển để “Chiêu hồn” và giã biệt tổ tiên. Người Chiêm tin đó là thật. Nhân lúc sơ hở, phái bộ đưa nhanh hoàng hậu lên một chiếc thuyền buồm nhỏ, nhẹ tếch trùng khơi. Lênh đênh trên biển 15 tháng Huyền Trân công chúa mới về đến Thăng Long. Thoát hiểm bằng đường biển, nhưng chắc khi “nhập cung” bà phải đi bằng đường bộ và phải đi qua hàng trăm cây cầu, hàng chục con đèo. Tôi lẩm nhẩm đếm chỉ kể từ cầu Đò Lèn vào Huế theo quốc lộ 1A đã có gần 100 cây cầu với những cái tên cổ tích: cầu Cấm, cầu Gia Lách, cầu Treo Vọt, cầu Trại Trâu, cầu Hói Sâu, cầu Nghèn, cầu Trìa, cầu Ái Tử, cầu Nhan Biều, cầu Biến Đá, cầu Phò Trạch, cầu An Lỗ... Phía đường Hồ Chí Minh thì tên nghe còn lạ hơn: cầu Ồ Ồ, cầu Thụp Núp, cầu Khe Ác, cầu Đập Bỉ, cầu Khe Mít, cầu Xà Manh... Bắc Trung Bộ địa hình vốn hẹp, độ dốc cao với hàng trăm khe lạch đổ nước ra biển, lắm cầu là phải. Qua cầu Đò Lèn và Hàm Rồng lại nhớ một thời các thầy Oánh, thầy Huề dẫn hai lớp 7 năm 1 và 2 vào thực tập và tham gia chiến đấu cùng các đơn vị Thanh niên xung phong năm 1965. Qua đoạn cầu Hiền Lương, nhìn chếch phía Cửa Tùng, nhớ 1969 cùng các anh chị lớp cao đẳng 1 đạp xe vào Vĩnh Linh vẽ, tôi mạo hiểm ra tận bờ sông ký họa, suýt bị dân quân địa phương bắt vì nghi vượt tuyến. Qua cầu Thạch Hãn lại nhớ tụi Hoàng Tích Minh, Lê Minh Trịnh, Phạm Mai Châu, Trần Luân Tín, Lê Duy Ứng, Nguyễn Hải Nghiêm, Trần Lê An... là những sinh viên Mỹ thuật nhập ngũ 9-1971 cùng đợt đó có Nguyễn Văn Thạc, Hoàng Nhuận Cầm... Tất cả các anh đều tham chiến tại thành cổ Quảng Trị năm 1972... Nhiều người đã hy sinh... Chắc Huyền Trân công chúa 700 năm trước trên đường về nhà chồng qua các đất Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Châu Ô, Châu Lý... cũng không thể tưởng tượng rằng một ngày nào đó nó lại trở thành “ác địa” tới mức như 1972. Nếu hành trình đi làm dâu xứ người được coi như một nghĩa cử hy sinh để mở mang bờ cõi: “Hai châu Ô, Lý vuông ngàn dặm/ Một gái Huyền Trân của mấy mươi”; thì trong dân gian không khỏi có lời eo xèo: “Tiếc cho cây quế giữa rừng/ Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”

Còn chính bà, dường như mượn lời ca trong điệu Nam Ai để tỏ lòng mình:

Nước non ngàn dặm ra đi
Cái tình chi
Mượn màu son phấn đền nợ Ô, Lý

 

Trong đền thờ công chúa Huyền Trân - Ảnh: hues.vn


Ngày nay, Huyền Trân công chúa đã được vinh danh trong một ngôi đền tuyệt đẹp dưới chân núi Ngũ Phong (còn gọi là Trung tâm văn hóa Huyền Trân). Hậu đền có thờ cả Thái Thượng hoàng - Tổ thứ nhất Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam Trần Nhân Tông - phụ thân bà). Vừa qua, nhân dân Việt Nam có tổ chức lễ kỷ niệm 700 năm sự kiện bà vào Chiêm làm hoàng hậu rất long trọng. Cách đó không xa, cũng có một quả núi khác, tuy không cao lắm nhưng khí rất sáng. Tên là núi Bân. Ngẫu nhiên một ngày nọ, tôi đọc được bài “Còn đâu áo vải cờ đào” của tác giả Nguyễn Tường Bách viết năm 2004. Ông cho biết chính tại núi Bân này, người anh hùng áo vải Tây Sơn đã lên ngôi Hoàng đế, xuất quân thần tốc như vũ bão ra Thăng Long đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh xâm lược. Nguyễn Tường Bách cũng than rằng, bây giờ có còn ai nhớ đến sự tích anh hùng của núi Bân nữa? Nó đã bị rơi vào quên lãng, bây giờ người ta gọi nó là Cồn Mồ vì người ta đến chỉ để tranh giành đất xây lăng mộ... Nhưng Ông đã không biết rằng, chỉ 3 năm sau, năm 2007 nhân dân Thừa Thiên Huế đã khởi công xây một tượng đài cao sừng sững bằng đá Hoàng đế Quang Trung (mẫu do nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ sáng tác). Tượng đá cao ngất trời mây giữa quảng trường mênh mông, sau lưng là một bức phù điêu hoành tráng kể về các chiến công của quân và dân Việt đánh thắng quân xâm lược Mãn Thanh dưới tài chỉ huy bách thắng của Hoàng đế Quang Trung. Đúng như lời Hoàng hậu Lê Ngọc Hân đã nói:

Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình


Sau chiến tranh, sau mấy chục năm bao cấp, rồi đổi mới, Mỹ thuật Việt Nam cũng góp tay vào thay đổi bộ mặt đất nước. Dọc theo dải đất miền Trung khô cằn và khắc nghiệt. Vào một buổi chiều tà, chúng tôi dừng chân ở Ngã ba Đồng Lộc. 40 năm trước, xe tăng hành quân qua nơi này, khi đó ở đây giống y như trong tranh của họa sĩ Lê Huy Hòa, nghĩa là không còn một lá cây ngọn cỏ, hố bom chồng lên hố bom, quang cảnh như trên mặt trăng, sao Hỏa vậy... Thế mà bây giờ cây cối tốt tươi một vùng quanh khu mộ 10 cô gái Thanh niên xung phong hy sinh ngày 27-4-1968 vì bom vùi. Và quanh nó có đến mấy cái tượng đài. Qua Thanh Hóa, Vinh, Hà Tĩnh, Hiền Lương, Dốc Miếu, Huế... đâu đâu cũng thấy tượng đài, tượng đài xứ ta phải cái na ná giống nhau, ngắm các công trình đó, ta phải liên tưởng là nó được dựng nên sau những trận mưa “duyệt” của những người cầm tiền có cùng một trình độ hiểu biết gần giống nhau. Còn tượng đài các anh hùng dân tộc thì như “anh em một nhà” kể cả y phục dù các cụ sinh ra cách nhau hàng thế kỷ. Quảng Trị thì tôi chưa được lịch duyệt, nhưng chỉ lướt qua khu Thành Cổ thì lạ thay lại chưa thấy tượng đài? Hay người ta cho rằng, bản thân khu thành nát bét gạch đá, thấm đẫm máu người đã là một tượng đài hoành tráng, oai hùng rồi? Nói thế thôi, chứ tôi biết phía đông nội thành, gần nhà bảo tàng có một đài tưởng niệm nhỏ nhỏ, đài xây hình cuốn sách mở ra hơi giống một lá cờ, phía trước có một ngọn lửa nhỏ hình cây bút kiêu hãnh, khiêm tốn. Đó là Đài kỷ niệm các sinh viên ra trận và tham gia 81 ngày đêm ở Cổ thành đẫm máu này. Kinh phí xây dựng và mẫu thiết kế do những người còn sống góp vào, sáng tạo và xây nên... Phía sau là hơn 10 phù điêu kể về chiến công của các anh từ khi còn trên giảng đường, rồi nhập ngũ, rèn luyện, chiến đấu, đoàn kết quân dân, tình đồng đội... như thế nào. Khi tôi vào thắp hương, trời mưa, đài kỷ niệm lại không có mái. Tôi cắm hương và lầm rầm khấn, cầu cho quốc thái dân an và xin chữ bình an. Kết thúc tôi bảo: “Nghe nói năm nay “trên” định tổ chức giỗ cho các ông to đấy, vì là năm chẵn mà”. Mưa như thế, mà bát hương bốc cháy đùng đùng! Lạ!

Đã 40 mùa hè đỏ lửa qua rồi kể từ cái ngày xách túi quần áo lên xe commăng ca nhập ngũ, xe rời sân trường dưới trời mưa bụi, giữa sân 42 Yết Kiêu Hà Nội còn 1 bóng người tiễn biệt... Tuổi trẻ sáng trong, mãnh liệt và chân thật! Trải qua dâu bể bụi trần quăng lên quật xuống, cái gì tốt đẹp nhất thì vẫn còn mãi. Núi cao băng qua thời gian, sông dài vượt qua năm tháng, suy nghĩ dọc đường thì gập ghềnh như thế, nhưng nó đã giúp tôi nói lên được cảm xúc của mình. Và quan trọng là nó thật!

L.T.D
(SDB 6-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN NHÃ TIÊN                         Bút ký"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ. Hưng tộ diên trường ức vạn xuân". Nghĩa là: đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân.Không hiểu những tương truyền về "sấm ký" Trạng Trình "ứng nghiệm" đến dường nào, đâu là nguyên bản và thực hư ra sao? Có điều, chúng tôi đang viếng thăm làng quê Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo - quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng vào cái khoảng thời gian "sau năm trăm năm" ấy, và nhất là vào giữa cái kỳ gian mà đất nước đang từng ngày" Hưng tộ diên trường ức vạn xuân".

  • TRẦN HOÀNGTrong tiếng Việt, từ "Văn vật" là một từ thuộc nhóm từ gốc Hán và cùng tồn tại song song với các từ: Văn hoá, Văn hiến, Văn minh. Người xưa thường dùng từ này để nói, viết về truyền thống văn hoá của một vùng đất, hoặc của một địa phương. Chẳng hạn, lâu nay, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã có câu: "Thăng Long là đất ngàn năm văn vật". Song có lẽ từ "Văn vật" xuất hiện nhiều nhất trong các cụm từ "làng văn vật", "danh hương văn vật". Điều này cho thấy từ xa xưa, tổ tiên ta đã rất quan tâm đến "văn hoá làng" và "làng văn hoá".

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử loài người, có những bức tranh, những pho tượng lấp lánh toả ánh hào quang lặng im của chúng trong sự lâu bền của năm tháng. Có những ký ức có thể thi gan cùng vĩnh cửu. Nhưng có lẽ, ngôn từ có sức mạnh riêng mà không một thách thức nào, dù là của không gian hay thời gian có thể làm nhạt nhoà những âm vang của nó. Tất nhiên, một khi nó đã đi vào trái tim và khối óc của con người. 1034 chữ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một trong những áng ngôn từ có sức sống bền vững với thời gian như thế.

  • TRẦN QUỐC TOẢN Tôi sinh ra và lớn lên giữa làng Hến bé nhỏ bên bờ sông La xã Đức Tân (tức Trường Sơn ngày nay) huyện Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh. Qua sự nhọc nhằn của cha, vất vả của mẹ đã đút mớm cho tôi từng thìa nước hến, bát cháo hến để rồi tôi lớn dần lên.

  • HỒ TƯNằm trên dải cát ven phá Tam Giang, từ xưa làng tôi cũng đã có một ngôi đình. Đến năm 1946, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân triệt phá ngôi đình để tránh cho Tây khỏi làm nơi trú đóng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Đất nước ta, miền Bắc và miền nối liền nhau bằng một dải đất dài và hẹp gọi là miền Trung. Dãy Trường Sơn chạy dọc biên giới phía Tây như một cột sống vươn những chi nhánh dài ra tận biển Đông, làm thành những đèo, trong đó hiểm trở là đèo Hải Vân.

  • PHẠM TIẾN DUẬT1.Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, khi nghiên cứu về dân tộc học, có luận điểm cho rằng, trong quá trình định cư dần dà từ Bắc vào Nam, các cộng đồng, một cách tự nhiên, hình thành từng vùng thổ âm khác nhau.

  • PHAN THUẬN AN.Nhiều người từng đến Lăng Cô hoặc nghe nói đến địa danh Lăng Cô, nhưng ít ai biết rằng vua Khải Định là người phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát này.Có thể nói vua Khải Định là ông vua thích du lịch nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn (1802- 1945). Trong đời mình, nhà vua đã đi du lịch nhiều nơi tring nước và cả nước ngoài nữa.

  • Thiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • Anh tôi đang giàu lên với nghề nuôi rắn độc, bị con hổ mang hỏi thăm vào tay. Mấy tiếng đồng hồ cáng tắt qua các cánh rừng đến bệnh viện huyện được cứu sống, nhưng vết thương bị hoại tử, hơn tháng sau mới xuất viện, tiêu tốn hơn chục triệu. Năm sau anh tôi lại bị chính con hổ mang ấy hỏi thăm ở tay kia. Lần này thì tôi đánh xe đi mời thầy thuốc rắn bản Lúng.

  • Đó là làng Lệ Mật thuộc xã Việt Hưng, (thị trấn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Làng này có nghề nuôi bắt rắn, tới nay đã qua 900 năm.

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, trải Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.

  • "Sang Xuân ta sẽ ăn Tết khai hạ vào ngày mùng 7 tháng Giêng".     Vì sao vua Quang Trung dám tuyên bố cả quyết như trên trước mặt ba quân? Tất cả bí mật của cuộc hành binh khôi phục Thăng Long đều được "gói trọn" trong một chiếc bánh chưng.

  • LGT: Nhà văn Thái Vũ với những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Cờ nghĩa Ba Đình, Biến động - Giặc Chày Vôi, Huế 1885... nay đã gần 80. Tuổi già sức yếu song ông đã hoàn thành tập Hồi ức, gồm 4 phần dày dặn. Trong đấy phần II: HUẾ - QUẢNG NGÃI VÀ LK5 là những trang hồi ức đầy “xốn xang” trước và sau CM tháng Tám.Sông Hương xin trích đăng một phần nhỏ gửi tới bạn đọc nhân kỷ niệm ngày CM tháng Tám thành công và Quốc khánh 2 – 9. 

  • Nếu kể cả những công trình nghiên cứu văn hóa, địa lý, lịch sử có đề cập đến các địa danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ thì xưa nhất phải kể đến “ Ô Châu cận lục” của Dương Văn An đời Mạc chép về sông núi, thành trì, phong tục của  xứ Thuận Quảng, từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Kế đến là “ Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn tập hợp những tài liệu về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa trong thời gian làm đô đốc xứ Thuận Hóa cuối thế kỷ 18.