LÊ TRÍ DŨNG
Tôi vẫn phải thưa với bạn đọc rằng suy nghĩ dọc đường thì bao giờ cũng trục trà trục trặc, lục cà lục cục, lủng cà lủng củng và nó cũng gập ghềnh theo nhịp bánh xe lăn, nhất là lúc qua ổ trâu, ổ gà...
Trung tâm Văn hóa Huyền Trân - Ảnh: internet
Tôi cũng không nhớ lần Nam hành này là lần thứ bao nhiêu trong đời nhưng lần nào cảm xúc cũng mạnh dù vẫn đi qua những địa danh cũ. Dịp tháng 4 này tôi lại Nam hành, điểm đến là Huế để dự cuộc hội thảo Mỹ thuật Bắc Miền Trung. Vì lẽ đó, nếu như Huế có được nhắc đến hơi nhiều, mong bạn đọc thể tất cho.
Huế - chính là Hóa đọc chệch ra, Thuận - Hóa là tên đã được đổi từ châu Ô, châu Lý. Thuận là châu Ô (Quảng Trị) và Hóa là châu Lý (Thừa Thiên) ngày nay. Hai châu Ô, Lý năm 1306 vốn là của Chiêm Thành, song nó được vua Chiêm là Chế Mân dùng làm sính lễ cho nhà Trần để lấy công chúa Huyền Trân (con gái Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông và là em gái vua Trần Anh Tông bấy giờ). Nhưng than ôi! Duyên lửa của ông vua Chiêm Thành hào hoa với hoàng hậu Đại Việt chưa được bao lâu, dù đã hạ sinh được 1 hoàng tử khôi ngô thì một năm sau ngày cưới, nhà vua băng hà. Theo tục lệ của người Chiêm, hoàng hậu phải hỏa thiêu theo chồng. Tiên liệu nguy cơ đó, triều đình nhà Trần phái Nhập nội hành khiển, Thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung vào cứu Huyền Trân. Theo đó, phái bộ xin Chiêm thành cho hoàng hậu ra tế ở bờ biển để “Chiêu hồn” và giã biệt tổ tiên. Người Chiêm tin đó là thật. Nhân lúc sơ hở, phái bộ đưa nhanh hoàng hậu lên một chiếc thuyền buồm nhỏ, nhẹ tếch trùng khơi. Lênh đênh trên biển 15 tháng Huyền Trân công chúa mới về đến Thăng Long. Thoát hiểm bằng đường biển, nhưng chắc khi “nhập cung” bà phải đi bằng đường bộ và phải đi qua hàng trăm cây cầu, hàng chục con đèo. Tôi lẩm nhẩm đếm chỉ kể từ cầu Đò Lèn vào Huế theo quốc lộ 1A đã có gần 100 cây cầu với những cái tên cổ tích: cầu Cấm, cầu Gia Lách, cầu Treo Vọt, cầu Trại Trâu, cầu Hói Sâu, cầu Nghèn, cầu Trìa, cầu Ái Tử, cầu Nhan Biều, cầu Biến Đá, cầu Phò Trạch, cầu An Lỗ... Phía đường Hồ Chí Minh thì tên nghe còn lạ hơn: cầu Ồ Ồ, cầu Thụp Núp, cầu Khe Ác, cầu Đập Bỉ, cầu Khe Mít, cầu Xà Manh... Bắc Trung Bộ địa hình vốn hẹp, độ dốc cao với hàng trăm khe lạch đổ nước ra biển, lắm cầu là phải. Qua cầu Đò Lèn và Hàm Rồng lại nhớ một thời các thầy Oánh, thầy Huề dẫn hai lớp 7 năm 1 và 2 vào thực tập và tham gia chiến đấu cùng các đơn vị Thanh niên xung phong năm 1965. Qua đoạn cầu Hiền Lương, nhìn chếch phía Cửa Tùng, nhớ 1969 cùng các anh chị lớp cao đẳng 1 đạp xe vào Vĩnh Linh vẽ, tôi mạo hiểm ra tận bờ sông ký họa, suýt bị dân quân địa phương bắt vì nghi vượt tuyến. Qua cầu Thạch Hãn lại nhớ tụi Hoàng Tích Minh, Lê Minh Trịnh, Phạm Mai Châu, Trần Luân Tín, Lê Duy Ứng, Nguyễn Hải Nghiêm, Trần Lê An... là những sinh viên Mỹ thuật nhập ngũ 9-1971 cùng đợt đó có Nguyễn Văn Thạc, Hoàng Nhuận Cầm... Tất cả các anh đều tham chiến tại thành cổ Quảng Trị năm 1972... Nhiều người đã hy sinh... Chắc Huyền Trân công chúa 700 năm trước trên đường về nhà chồng qua các đất Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Châu Ô, Châu Lý... cũng không thể tưởng tượng rằng một ngày nào đó nó lại trở thành “ác địa” tới mức như 1972. Nếu hành trình đi làm dâu xứ người được coi như một nghĩa cử hy sinh để mở mang bờ cõi: “Hai châu Ô, Lý vuông ngàn dặm/ Một gái Huyền Trân của mấy mươi”; thì trong dân gian không khỏi có lời eo xèo: “Tiếc cho cây quế giữa rừng/ Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”
Còn chính bà, dường như mượn lời ca trong điệu Nam Ai để tỏ lòng mình:
Nước non ngàn dặm ra đi
Cái tình chi
Mượn màu son phấn đền nợ Ô, Lý
![]() |
Trong đền thờ công chúa Huyền Trân - Ảnh: hues.vn |
Ngày nay, Huyền Trân công chúa đã được vinh danh trong một ngôi đền tuyệt đẹp dưới chân núi Ngũ Phong (còn gọi là Trung tâm văn hóa Huyền Trân). Hậu đền có thờ cả Thái Thượng hoàng - Tổ thứ nhất Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam Trần Nhân Tông - phụ thân bà). Vừa qua, nhân dân Việt Nam có tổ chức lễ kỷ niệm 700 năm sự kiện bà vào Chiêm làm hoàng hậu rất long trọng. Cách đó không xa, cũng có một quả núi khác, tuy không cao lắm nhưng khí rất sáng. Tên là núi Bân. Ngẫu nhiên một ngày nọ, tôi đọc được bài “Còn đâu áo vải cờ đào” của tác giả Nguyễn Tường Bách viết năm 2004. Ông cho biết chính tại núi Bân này, người anh hùng áo vải Tây Sơn đã lên ngôi Hoàng đế, xuất quân thần tốc như vũ bão ra Thăng Long đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh xâm lược. Nguyễn Tường Bách cũng than rằng, bây giờ có còn ai nhớ đến sự tích anh hùng của núi Bân nữa? Nó đã bị rơi vào quên lãng, bây giờ người ta gọi nó là Cồn Mồ vì người ta đến chỉ để tranh giành đất xây lăng mộ... Nhưng Ông đã không biết rằng, chỉ 3 năm sau, năm 2007 nhân dân Thừa Thiên Huế đã khởi công xây một tượng đài cao sừng sững bằng đá Hoàng đế Quang Trung (mẫu do nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ sáng tác). Tượng đá cao ngất trời mây giữa quảng trường mênh mông, sau lưng là một bức phù điêu hoành tráng kể về các chiến công của quân và dân Việt đánh thắng quân xâm lược Mãn Thanh dưới tài chỉ huy bách thắng của Hoàng đế Quang Trung. Đúng như lời Hoàng hậu Lê Ngọc Hân đã nói:
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình
Sau chiến tranh, sau mấy chục năm bao cấp, rồi đổi mới, Mỹ thuật Việt Nam cũng góp tay vào thay đổi bộ mặt đất nước. Dọc theo dải đất miền Trung khô cằn và khắc nghiệt. Vào một buổi chiều tà, chúng tôi dừng chân ở Ngã ba Đồng Lộc. 40 năm trước, xe tăng hành quân qua nơi này, khi đó ở đây giống y như trong tranh của họa sĩ Lê Huy Hòa, nghĩa là không còn một lá cây ngọn cỏ, hố bom chồng lên hố bom, quang cảnh như trên mặt trăng, sao Hỏa vậy... Thế mà bây giờ cây cối tốt tươi một vùng quanh khu mộ 10 cô gái Thanh niên xung phong hy sinh ngày 27-4-1968 vì bom vùi. Và quanh nó có đến mấy cái tượng đài. Qua Thanh Hóa, Vinh, Hà Tĩnh, Hiền Lương, Dốc Miếu, Huế... đâu đâu cũng thấy tượng đài, tượng đài xứ ta phải cái na ná giống nhau, ngắm các công trình đó, ta phải liên tưởng là nó được dựng nên sau những trận mưa “duyệt” của những người cầm tiền có cùng một trình độ hiểu biết gần giống nhau. Còn tượng đài các anh hùng dân tộc thì như “anh em một nhà” kể cả y phục dù các cụ sinh ra cách nhau hàng thế kỷ. Quảng Trị thì tôi chưa được lịch duyệt, nhưng chỉ lướt qua khu Thành Cổ thì lạ thay lại chưa thấy tượng đài? Hay người ta cho rằng, bản thân khu thành nát bét gạch đá, thấm đẫm máu người đã là một tượng đài hoành tráng, oai hùng rồi? Nói thế thôi, chứ tôi biết phía đông nội thành, gần nhà bảo tàng có một đài tưởng niệm nhỏ nhỏ, đài xây hình cuốn sách mở ra hơi giống một lá cờ, phía trước có một ngọn lửa nhỏ hình cây bút kiêu hãnh, khiêm tốn. Đó là Đài kỷ niệm các sinh viên ra trận và tham gia 81 ngày đêm ở Cổ thành đẫm máu này. Kinh phí xây dựng và mẫu thiết kế do những người còn sống góp vào, sáng tạo và xây nên... Phía sau là hơn 10 phù điêu kể về chiến công của các anh từ khi còn trên giảng đường, rồi nhập ngũ, rèn luyện, chiến đấu, đoàn kết quân dân, tình đồng đội... như thế nào. Khi tôi vào thắp hương, trời mưa, đài kỷ niệm lại không có mái. Tôi cắm hương và lầm rầm khấn, cầu cho quốc thái dân an và xin chữ bình an. Kết thúc tôi bảo: “Nghe nói năm nay “trên” định tổ chức giỗ cho các ông to đấy, vì là năm chẵn mà”. Mưa như thế, mà bát hương bốc cháy đùng đùng! Lạ!
Đã 40 mùa hè đỏ lửa qua rồi kể từ cái ngày xách túi quần áo lên xe commăng ca nhập ngũ, xe rời sân trường dưới trời mưa bụi, giữa sân 42 Yết Kiêu Hà Nội còn 1 bóng người tiễn biệt... Tuổi trẻ sáng trong, mãnh liệt và chân thật! Trải qua dâu bể bụi trần quăng lên quật xuống, cái gì tốt đẹp nhất thì vẫn còn mãi. Núi cao băng qua thời gian, sông dài vượt qua năm tháng, suy nghĩ dọc đường thì gập ghềnh như thế, nhưng nó đã giúp tôi nói lên được cảm xúc của mình. Và quan trọng là nó thật!
L.T.D
(SDB 6-12)
Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ là cụ Nguyễn Nhiệm (Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành (Phương Trạch hầu) , Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm (Xuân Quận công) thân phụ của Nguyễn Du.
Văn hóa đình làng từng có một vị trí hết sức quan trọng trong cộng đồng người dân sống ở chốn kinh kỳ Thăng Long - Kẻ Chợ xưa kia. Theo thống kê, ở khu phố cổ hiện nay vẫn còn hơn 60 ngôi đình trong tổng số 112 công trình tôn giáo tín ngưỡng từng có tại đây. Số phận những ngôi đình đó giờ ra sao, trong thời buổi kinh tế “mặt tiền thành tiền mặt”?
LÊ THỊ MÂY
1
Hơn mười ba năm về trước, kỳ vừa ngưng bom đạn, thường từ sớm chủ nhật, tôi đã về quanh quẩn với phố đổ rậm rì cỏ dại. Nhiều lần đếm đi đếm lại, cũng chỉ còn sót có mười bốn cây dừa, thân bị băm kín miểng bom. Tàn lá xơ xáp, đỏ cháy.
PHẠM HỮU THU
Đầu tháng tư năm nay, tôi mới có dịp trở lại Hải Vân, bởi từ khi có hầm đường bộ, xe cộ ít qua lại con đường đèo quanh co, đầy hiểm nguy nhưng có cảnh quan tuyệt mỹ này.
Ngoài một dung lượng văn hóa tộc người đủ thỏa mãn độc giả thì công trình Mọi Kontum(1937) của Nguyễn Kỉnh Chi và Nguyễn Đổng Chi còn là một văn phẩm tạo được sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt. Tham luận góp phần lý giải thành công của tác phẩm trên ba phương diện: Lối khảo tả chân phương mà thấu đạt, trí tuệ sắc bén mà vẫn hồn hậu và văn phong ấn tượng.
Chỉ 15 năm, như chớp mắt, hàng loạt các công trình hiện đại đã hùng hổ đẩy những biểu tượng cũ của Sài Gòn đi sâu vào trong quá khứ, biến chúng thành những tiểu cảnh.
INRASARA
Khi mẹ la chị Hám: “Mi không biết hôm nay là ngày gì sao mà hốt thóc trong lẫm đi xay”, thì tôi biết ngay đây là ngày trăng hết harei ia bilan abih, ngày người Cham kiêng xuất hàng ra khỏi nhà.
Dù có thể không sinh ra trên mảnh đất này nhưng đã là người Việt Nam ai cũng cảm nhận được một Hà Nội của chúng ta từ sông Hồng đỏ nặng phù sa đến Hồ Gươm lung linh truyền thuyết, Văn miếu - Quốc Tử Giám thâm nghiêm... Và cũng xao xuyến nhận ra một cái gì đó rất Hà Nội, của Hà Nội, từ mùa thu se sẽ lâng lâng đến đêm nồng nàn hoa sữa, cơn mưa tìm về phố cổ với màn sương lan nhẹ mặt Hồ Gươm...
Chợ Gôi ở xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh có tự bao giờ? Câu hỏi thật khó và cũng chưa thể có câu trả lời đầy đủ. Mà cái tên nôm “Gôi” còn được dùng để chỉ địa danh của nhiều nơi khác ở Việt Nam.
Vượt chặng đường hơn 50 km về hướng bắc, từ trung tâm thành phố Pleiku - tỉnh Gia Lai chúng tôi tìm đến làng Kon Solal ở xã Hà Tây, huyện Chư Păh - một trong vài ngôi làng nguyên sơ cuối cùng còn lại của đồng bào BaNa.
Đó là ngôi làng dưới chân núi Chư Mom Ray nhiều huyền thoại. Điều kỳ lạ là cả đứa trẻ 10 tuổi cũng nói được nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng của dân tộc khác, mà họ còn nói được tiếng Lào, Miên và những đứa trẻ được đi học thì tiếng Anh cũng không phải là ngoại lệ.
“Thất bại trước quân Triệu Đà tại Cổ Loa của An Dương Vương dẫn đến 1.000 năm Bắc thuộc là nỗi đau lớn của dân tộc Việt. Nhưng Cổ Loa không chỉ ghi dấu thất bại thiên thu. Mà đó còn là nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô ngay khi đại phá quân Nam Hán năm 938, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của nước việt với triều đình phương Bắc. Và điều này đang bị lãng quên...”.
Chùa Tiêu Sơn (thường gọi là chùa Tiêu) - một danh thắng nổi tiếng và cũng là - trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.
Đền Quả Sơn ở Bạch Ngọc nay là xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương thờ Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh vương. Mùa xuân năm 1902, Nguyễn Sinh Cung trên nẻo đường theo cha đi dạy học, thăm thú quê hương có đến chiêm bái đền Quả Sơn - một trong bốn ngôi đền linh thiêng nhất của tỉnh Nghệ.
Hát ví Sông La (tên gọi một làn điệu ví của Xứ Nghệ; cũng có thể hiểu là điệu ví ở sông La) tham luận này đề cập giới hạn những điệu ví ra đời, tồn tạị, phát triển ở vùng sông La, miền Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Chùa Nền, phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1116–1138), bài trí thờ Phật và song thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh là ngài Từ Vinh và bà Tằng Thị Loan.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, ngành Dân tộc học Việt Nam nói chung và miền Trung Tây Nguyên nói riêng được các nhà khoa học, chính trị, bác sĩ của Pháp tiến hành nghiên cứu và công bố nhiều tác phẩm có giá trị.
(SHO) Cứ hễ nhắc tới miền Trung, mỗi người Việt Nam có thể mường tượng ngay ra trong đầu những vùng đất của thiên tai triền miên. Miền đất, nơi mà từ tấm bé cho tới khi lìa đời dường như đều gắn với con chữ nghèo và sớm sương mưa nắng lận đận mưu sinh.
(SHO) Vậy là tôi đã ở Miền Tây mênh mang sông nước! Tôi đã đặt chân lên bến Ninh Kiều Cần Thơ và ấp Mũi Cà Mau! Tôi đã đi tàu ca nô trên những con kênh, con lạch mà hai bên bờ mọc đầy những cây đước, cây tràm…
Huế xưa – nay, Huế của khúc ruột nước non, chứa đựng trong mình cả một bề dày lịch sử thông qua nét trầm mặc cổ kính của những lăng tẩm, cung điện, chùa chiền… Nhưng có lẽ ít ai biết, Huế vẫn còn ẩn chứa trong mình một A Lưới - vùng đất nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và trầm lắng nhiều giá trị văn hoá cổ xưa của cộng đồng các dân tộc thiểu số.