Sự phát triển thể tài của thơ Tố Hữu

14:28 04/03/2011
L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.

Đêm thơ "Quê mẹ" kỷ niệm 90 năm ngày sinh và 9 năm ngày mất của nhà thơ Tố Hữu tại Huế


Thơ Tố Hữu được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình gọi là thơ chính trị, thơ thời cuộc, thơ thời sự, thơ cảm hứng xã hội… Theo chúng tôi gọi là thơ chính trị đúng hơn cả, vì trong mọi quan hệ đời sống, trước mọi hiện tượng hiện thực Tố Hữu quan tâm trước hết đến nội dung chính trị của chúng, chứ không phải bản thân các hiện tượng, vấn đề xã hội, hay sự kiện thời sự. Thơ Tố Hữu là thơ khám phá trực tiếp ý nghĩa chính trị của các hiện tượng cuộc đời. Vì vậy tuy thơ nào cũng có liên hệ thế này hay thế khác với chính trị, nhưng không thể đều gọi là thơ chính trị. Và đó là hiện tượng thơ nổi bật của văn học chúng ta, chứng tỏ nhiệt tình của các nghệ sĩ muốn tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh chính trị bằng vũ khí nghệ thuật của mình.

Nhưng sẽ sai lầm nếu cho rằng thơ trữ tình chính trị đơn điệu nghèo nàn về mặt thể loại. Chính nghiên cứu loại hình về mặt này sẽ cho ta ý niệm về giới hạn rộng rãi của loại thơ này ở đây, theo chúng tôi, lý luận của G.N.Pospelôp có ý nghĩa đáng kể. Theo Pospelôp, dựa trên kinh nghiệm văn học châu Âu, có thể nhận thấy ba tuyến nội dung thể loại chủ yếu mà chúng tôi gọi một cách qui ước là “thể tài” để phân biệt khái niệm “thể loại”, thiên về chỉ hình thức, phương thức thể hiện đời sống như tự sự, trữ tình, kịch. Thuộc vào thể tài lịch sử dân tộc là các tác phẩm tập trung miêu tả quá trình hình thành dân tộc, cuộc đấu tranh để bảo vệ và xây dựng quốc gia, các sự kiện đấu tranh giai cấp, chiến tranh, cách mạng có ảnh hưởng tới vận mệnh toàn thể nhân dân, dân tộc. Khi tình trạng quốc gia tương đối ổn định, thì vấn đề quan hệ các giai cấp, các tầng lớp người trong xã hội, quan hệ thành thị và nông thôn, trạng thái ứng xử giữa người và người, với thiện ác, các chuẩn mực quan hệ… nổi lên và trở thành nội dung của các tác phẩm thuộc thể tài đạo đức - thế sự (1)… Sự ý thức về đời sống cá nhân, quá trình hình thành của cá tính nhân cách, các xúc động riêng tư, nhất là trong tình yêu đôi lứa, lại là cơ sở của các tác phẩm thuộc thể tài đời tư (2). “Đời tư” ở đây, dĩ nhiên không phải là cái đối lập hay loại trừ “đời công”, bởi vì, thể tài, chẳng những là một loại hiện tượng đời sống được miêu tả, mà còn là một góc độ, một quan điểm “xem xét vấn đề”, “một quan điểm về thế giới đã được cố định lại” (3). Cả ba loại thể tài ấy đều được thể hiện vào các thể loại văn học khác nhau, và có căn cứ để gọi, chẳng hạn thơ trữ tình lịch sử dân tộc, thơ trữ tình thế sự, thơ trữ tình đời tư v.v… Mỗi thể tài như vậy gắn liền với một số tính cách cảm hứng và một hệ thống biện pháp nghệ thuật nhất định. Ở các tác phẩm lớn thường có sự kết hợp các thể tài thành tác phẩm nhiều bình diện.

Về sự hình thành và phân hóa các dòng thể tài trong văn học ta chưa được nghiên cứu riêng. Xét riêng về thơ Tố Hữu ta có thể nhận thấy một số đường nét có tính qui luật rõ rệt. Nếu thơ ca các nhà cách mạng đầu thế kỷ và của các nhà cách mạng vô sản nghiêng về thể tài lịch sử dân tộc (thể hiện tình trạng nô lệ của dân tộc, phát hiện lại dòng giống Lạc Hồng, con Rồng cháu Tiên, các sự tích anh hùng, ý chí rửa thù nhà đền nợ nước…) thì thơ văn hợp pháp nghiêng về thể tài thế sự và đời tư. (Văn thơ lãng mạn chủ nghĩa, sáng tác hiện thực phê phán). Vì vậy sự khác biệt của hai loại sáng tác trên không chỉ thể hiện ở thế giới quan, về tư tưởng cách mạng, mà còn khác nhau về thể tài nữa. Sáng tác của Tố Hữu thể hiện một quá trình không ngừng tìm tòi và phát triển thể tài văn học của văn học cách mạng.


Xuất hiện trong môi trường thơ văn đương thời, trước hết nhà thơ phải đối thoại với thơ văn thế sự và đời tư. Và như vậy Tố Hữu mở ra một hướng phát triển mới so với thơ văn cách mạng đương thời. Các bài thơ Mồ côi, Tương tư, Hai đứa bé, Vú em, Tiếng hát sông Hương, Lão đầy tớ, Hồn chiến sĩ, Đi đi em, Một tiếng rao đêm… rõ ràng là làm trên cơ sở các mô típ thế sự và đời tư, như cô đơn, lạnh lùng, bị hắt hủi, vùi dập… Nhưng Tố Hữu đã khéo kết hợp các mô típ có tính chất kích động, tuyên truyền như nuôi căm hờn, đợi ngày mai, khinh lối sống ươn hèn, chọn đường đời, dám đứng dậy, phá bất bình, đối lập hai thế giới… Tác giả lồng nội dung chính trị vào thể tài thế sự vào đời tư, làm cho các lý tưởng chính trị trở nên gần gũi. Tố Hữu không tập trung vào việc phê phán tội ác chế độ cũ. Nội dung chính trị của thơ Từ ấy cũng không tập trung ở việc tuyên truyền nội dung đấu tranh giai cấp thuần túy, vạch ra các tội ác bóc lột, tra tấn hoặc thuần túy bày tỏ quyết tâm hy sinh vì cách mạng như phần nhiều thơ ca cách mạng đương thời. Nhà thơ đem lẽ sống cách mạng vô sản, niềm tin vào tương lai cộng sản chủ nghĩa mà soi sáng viễn cảnh của từng cuộc đời khổ tủi, vô vọng riêng tư. Tố Hữu, nhà thơ đầu tiên đưa vấn đề quan hệ giữa số phận cá nhân và cách mạng xã hội làm thành chủ đề trung tâm của thơ. Cách mạng xã hội là con đường duy nhất để đổi thay cuộc đời cá nhân và mỗi cá nhân phải đứng lên làm cách mạng, hy sinh cho cách mạng. Tố Hữu tạo ra một vạch nối giữa số phận cá nhân của vú em, gái giang hồ, đời thợ, em bé bán dạo, trẻ mồ côi, lão đầy tớ, người Thượng già… với viễn cảnh cách mạng. Tác giả nhìn cách mạng từ nhu cầu giải phóng của từng cá nhân. Cái nhìn nhà thơ xoáy vào nỗi khổ tâm của họ như bị hắt hủi, bị đè đầu, bị bỏ rơi, không biết đến ngày vui, sống như “trâu chó”, và quan tâm đến khát vọng đổi đời của họ. Nhà thơ đã dựng lên được nỗi khát vọng khắc khoải của cô gái sông Hương, nỗi khổ tâm nhức nhối của người thợ, nỗi đau đớn quằn quại của người Thượng già, mối đồng cảm sâu nặng của người lính đêm, bóng dáng yếu đuối non tơ của em bé bán dạo… Cuối mỗi bài như vậy, khi thì gợi lên niềm uất hận, khi thì gợi lên niềm tuyệt vọng đối với xã hội cũ, khi thì gợi lên tình cảm phản kháng, hướng về tương lai. Có thể nói đó là thể tài thơ chính trị đời tư rất tiêu biểu cho phần lớn thơ Từ ấy Việt Bắc.

Có lẽ không nên cho rằng chỉ có bài Tiếng hát trên đê mới là tiếng dạo đầu cho phong cách thơ Việt Bắc. Sự thực thì ngòi bút trữ tình giàu khả năng quan sát chân dung quần chúng tinh tế của Từ ấy đã chuẩn bị cho những dòng thơ miêu tả đồng bào và chiến sĩ ở Việt Bắc. Thiết tưởng cũng không nên thổi phồng “bước ngoặt”, bước chuyển biến hẳn giữa phong cách Từ ấyViệt Bắc là khắc họa được tinh thần làm chủ, niềm tin và sức vươn lên khỏe khoắn của quần chúng, nhưng đó là nội dung của một thời đại mới. Còn cái lặp lại về mặt thể tài vẫn rất rõ: tuyên truyền kháng chiến từ phía số phận và nhu cầu nhân cách của các cá nhân: cô gái Bắc Giang, anh Vệ sơn cốt, em Lượm, bà mẹ Việt Bắc, bà bủ, bà bầm… Đó là một lối thơ chính trị mềm mại, uyển chuyển, thấm thía.

Thơ trữ tình đời tư đòi hỏi thể hiện các cảm xúc tâm trạng cá nhân của cái “tôi” của con người bình thường. Các mô típ tiêu biểu của nó là sự lầm lỡ, hối hận (Con chim của tôi), những mất mát cá nhân (Đi đi em, Hai cái chê), các xúc động bồng bột phi chuẩn mực (Vui bất tuyệt, Tranh đấu), những nỗi ưu tư, u uất (Quanh quẩn, Lao Bảo, Khi con tu hú), những nỗi nhớ nhung cháy lòng (Nhớ đồng, Nhớ người), những phút phản tính (Tâm tư trong tù, Con cá chột nưa, Năm xưa…). Cái mới ở đây là Tố Hữu đã đưa tình cảm cách mạng nhất là lý trí cách mạng vào thế giới cảm xúc cá nhân, làm sâu sắc và đổi mới cảm xúc ấy, hướng nó phát triển về phía cách mạng. Bên cạnh chủ đề nuôi căm hờn, Tố Hữu nhấn mạnh tình cảm gắn bó tha thiết với đồng bào, đồng chí, với hoạt động. Cảm giác “cô đơn thấm lạnh” và nỗi “buồn quanh quẩn” của Tố Hữu ở trong tù là rất mới. Đó là ý thức về tập thể, về sự “xa tạm ngọn cờ”. Cái “buồn cô liêu” là vì phải “xa rời bóng dáng yêu thương cũ”. Tình cảm “ngao ngán” là sự phủ định hiện trạng - không nên qui giản đơn các loại tình cảm “đời tư” ấy vào phạm trù tình cảm ủy mị tiểu tư sản. Chính các tình cảm ấy giục giã tác giả đấu tranh, tổ chức vượt ngục, trở về với đồng chí và hoạt động. Nếu xóa bỏ hết các nét tình cảm đời tư ấy thì nội dung trữ tình cách mạng sẽ đơn điệu, một chiều biết bao! Nhà phê bình Lê Đình Kỵ đã nói rất đúng: “Nếu đánh giá không đúng cái buồn trong sáng tác văn thơ thì sẽ cắt đứt một mạch cảm hứng trữ tình lành mạnh có ngọn nguồn trong đời sống thực tế và tâm tư con người” (4).

Kết hợp chủ đề chính trị với thể tài đời tư Tố Hữu về căn bản tránh được bệnh ấu trĩ tả khuynh thường gặp của thơ ca vô sản những năm 20, cho rằng thơ ca chính trị là cái loa của tư tưởng quần chúng, là thơ khẩu hiệu trừu tượng, phủ nhận cái “tôi”, phủ nhận tác giả. Nhiều tác giả lỗi lạc của thơ ca xã hội chủ nghĩa thời đó như Mai-a-cốp-xki, Brô-ni-ép-xki, At-ti-la Giô-xép, Nê-dơ-van, Bê-sơ, Hai-nơ… đều ít nhiều có lúc chịu ảnh hưởng của khuynh hướng đó.


Từ cuối tập Việt Bắc trở đi, thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu chuyển sang thể tài lịch sử dân tộc. Anh Nguyễn Văn Hạnh đã nhận định chính xác khi cho rằng từ cuối tập Việt Bắc thơ Tố Hữu có “thiên hướng khái quát tổng hợp” (5). Nhưng từ “tổng hợp” không thật chính xác. Sau này nhà phê bình nói rõ hơn “Cảm hứng sử thi” (6). Đúng như vậy, từ đây nhà thơ bắt đầu suy nghĩ các vấn đề chính trị trên cấp độ số phận dân tộc và đất nước. Con người trữ tình trong Ta đi tới, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Bắc… dù là “ta”, là “mình”, thảy đều là một cái “tôi” đất nước, dân tộc. Với sự khác nhau về thể tài này, ta sẽ thấy đòi hỏi cái vui trong Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt phải chững chạc như trong Ta đi tới là thiếu căn cứ biết chừng nào!

Dĩ nhiên ở Từ ấy đã có yếu tố sử thi trong Dậy lên thanh niên, Quyết hy sinh, Bà má Hậu Giang, nhưng từ nay nó mới là thể tài chủ đạo. Từ đây, số phận đất nước, sức mạnh dân tộc, nhân dân, Đảng là đối tượng suy nghĩ trực tiếp, chủ yếu của nhà thơ:

Ta đã lớn lên rồi trong khói lửa
Chúng nó chẳng còn mong được nữa
Chặn bàn chân một dân tộc anh hùng…

Chào 61, đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng
Trồng lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông bắc trông nam trông cả địa cầu.

Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc và cho tất cả
Lá cờ này là máu, là hoa
Của ta, của con người vô giá…


Cuộc đời số phận của cá nhân, khác với thể tài đời tư, ở đây được đánh giá theo góc độ đóng góp của nó cho sự nghiệp của dân tộc, nhân dân và Đảng

Trắng khăn tang em chẳng khóc đâu
Hỡi em gái mất cha mất mẹ
Nước mắt rơi, làm nhòa mặt quân thù
Em phải bắn trúng đầu giặc Mỹ

            (Việt Nam, máu và hoa)

Chuyện cô du kích xóm Lai Vu
Rắn quấn bên chân vẫn bắn thù
“Mỹ hại trăm nhà, lo diệt trước
Rắn, mình em chịu, có sao đâu!

                        (Tâm sự)

Sự thay đổi góc độ nhìn nhận sẽ làm thay đổi lô gic cảm thụ của thể tài. Chẳng hạn, ta dễ chấp nhận khi Tố Hữu viết những câu thơ hay trong Người con gái Việt Nam:

Ôi trái tim em trái tim vĩ đại
Còn một giọt máu tươi, còn đập mãi
Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời
Cho quê hương em. Cho tổ quốc, loài người
.

Câu thơ thứ ba, diễn đạt dứt khoát tư tưởng “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”, gây một cảm giác tự nhiên. Trái lại, trong bài Đời thơ (Từ ấy) có câu:

Chừ sao đây? Kéo cờ trắng đầu hàng
Hay chuyển sức trăm cân đầu búa sắt
Gạt phăng hết những tình riêng nhỏ nhặt
Để tay ghì riết chặt khối đời to?


thì câu thứ ba lại thường được trích dẫn như là bằng chứng của thế giới quan non yếu, tiểu tư sản. Có ý kiến lại cho rằng đó là cách nói thiếu uyển chuyển, cách nói của tuổi trẻ sôi nổi. Theo chúng tôi, chỗ “sai” trong trường hợp trên không ở nguyên nhân tư tưởng, cũng không ở cách nói thiếu uyển chuyển mà ở bản thân thể tài. Tác giả đã kết hợp không nhuyễn một tư tưởng sử thi ngay tiếp sau câu tư tưởng có tính chất đời tư. Hy sinh tình cảm riêng cho sự nghiệp là một tư tưởng đúng. Nhưng lại nêu vấn đề “gạt phăng” ngay sau khi nêu nỗi thống khổ của vợ con thì lại không thích hợp.

Sử thi là sự nhìn nhận con người qua giác độ xã hội dân tộc. Tác giả sử thi tư duy bằng dân tộc xã hội, nhân loại, khác với thể tài đời tư nhìn xã hội, dân tộc qua tình cảnh và số phận cá nhân. Sử thi đòi hỏi các sự kiện lớn như chiến tranh, cách mạng. Đó là các sự kiện ôm trùm tất cả, đòi hỏi phải động viên sức lực, tâm huyết của cả một dân tộc. Sử thi đòi hỏi mọi người phải đối xử với nhau như anh em, đồng chí, bạn bè, đòi hỏi mọi người phải lớn như nhau trong tầm vóc quốc gia. Sử thi là sự khẳng định dân tộc trong cơn nguy biến. Khẩu hiệu của sử thi là “Tổ quốc hay là chết!”. Tình huống sử thi đặt con người trước sự nghiệp anh hùng, đòi hỏi con người trở thành anh hùng đại diện dân tộc. Bác Hồ, chị Lý, anh Trỗi, anh Môrixơn trong thơ Tố Hữu đều là con người sử thi, cả mẹ Suốt, bà má Hậu Giang, mẹ Tơm Thanh Hóa… cũng đều là con người sử thi cả.

Tư duy trên tầm sử thi cho phép nhà thơ thể hiện tập trung vấn đề cách mạng và dân tộc, dân tộc và nhân loại, dân tộc và thời đại, dân tộc hiện đại và truyền thống. Không phải ngẫu nhiên mà ở giai đoạn sau, các vấn đề trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng là các vấn đề đặt ra giữa “ta” và “nó”, giữa “chúng ta” và “chúng nó”, giữa “miền Bắc” và “miền Nam”, giữa “ta” và “ta”. Hoàn toàn đó không phải là vấn đề giữa cá nhân này và cá nhân khác như trong thể tài đời tư. Không cứ là sử thi thì đều hay hơn thể tài đời tư. Vấn đề là sử thi đem lại một tầm vóc khái quát và suy nghĩ trên các vấn đề lớn mà thơ thể tài đời tư không có được. Chẳng hạn bài Quê hương- một bài thơ hay của Giang Nam, thuộc thể tài đời tư. Cuối bài Giang Nam kết luận:

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi…
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.

Bài Quê mẹ của Tố Hữu cũng nói tình yêu quê hương, nhưng cấp độ sử thi cho phép nhà thơ nghĩ đến:

Ôi Huế nghìn năm, Huế của ta.
Đường vào sẽ nối lại đường ra
Như con của mẹ về quê mẹ
Huế lại về vui giữa Cộng Hòa!


Chính vì sử thi là một cấp tư duy nghệ thuật nên nó cần thiết để thể hiện tầm vóc con người thời đại cũng như trách nhiệm lớn lao của nó đối với đất nước. Khi gọi thơ Tố Hữu từ cuối tập Việt Bắc trở đi là thơ trữ tình sử thi là muốn nói tới phương diện thể tài của nó, chứ không phải là thể loại thì sử thi là tự sự, và trữ tình sử thi không phải là một thứ tác phẩm tự sự trữ tình. Nó vẫn là thơ trữ tình nhưng mang quan điểm sử thi.

Quan điểm sử thi, ngoài thể hiện ở cái “ta” dân tộc, ở đối lập “chúng ta - chúng nó”, còn thể hiện ở khả năng sử thi hóa các hình ảnh, từ ngữ của các thể tài khác. Chẳng hạn, Thạch Sanh, một hình tượng thế sự khi vào thơ Tố Hữu đã trở thành hình tượng sử thi đầy khí phách hào hùng:

Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi
Một giây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ


Cách xưng hô “mình-ta” trong Việt Bắc hay “anh-em” trong Gió lộng thật ra là cách xưng hô sử thi, khác cách xưng hô đời tư trong ca dao trữ tình dân gian hoặc thư tình. Cái “trăm năm” trong câu “khao khát trăm năm mãi đợi chờ. Hôm nay vui đến ngỡ trong mơ” hay “Mắt ướt trăm năm đã hé cười”… không phải là trăm năm đời người mà là “trăm năm mất nước mất nhà”, mang nội dung lịch sử dân tộc. Việc học tập sử dụng truyền thống văn học và dân gian ở Tố Hữu không giản đơn là “Tiếp thụ có sáng tạo”, mà còn là theo nguyên tắc vận dụng quan điểm dân tộc vốn có của truyền thống, hoặc đổi mới theo hướng sử thi hóa. Khi Tố Hữu nói:

Ngẩng đầu lên trong sáng tuyệt trần
Tháng tám trời thu xanh thẳm

Hay tả:

Đồng lúa làng tre nắng vàng rắc phấn
Sương lung linh núi gấm mây tơ
Như trong mơ… không biết tự bao giờ
Nghìn năm cũ đang hồi xuân thắm lại…

Hay ngắm:

Ôi những nàng xuân rất dịu dàng
Hát câu quan họ chuyến đò ngang
Nhẹ nhàng tay cấy bên sông ấy
Súng khoác trên lưng chẳng ngỡ ngàng…


Thì đó cũng đều là những phong cảnh mang tính chất sử thi.

Nếu như thơ trữ tình đời tư hạn chế trong việc trực tiếp nêu lên các vấn đề về quốc gia, dân tộc thì trái lại sử thi hạn chế trong việc thể hiện các vấn đề thuộc số phận cá nhân. Việc kết hợp hai loại thể tài ấy là điều cần thiết và có thể làm được để làm phong phú tiếng thơ. Mai-a-côp-xki đã “đạt sự tổng hợp tình cảm cá nhân và nghĩa vụ xã hội”. Trong khuôn khổ thơ trữ tình chính trị, yếu tố lịch sử dân tộc của thơ Tố Hữu ngày càng chiếm ưu thế tuyệt đối. Cá nhân trong thơ Tố Hữu căn bản là một cá nhân của dân tộc. Tính tổng hợp thơ Tố Hữu theo một phương hướng khác, tổng hợp tư tưởng chính trị hiện đại: tư tưởng xã hội chủ nghĩa với tư tưởng, tình cảm dân tộc truyền thống. Đó cũng là cơ sở của tính dân tộc hiện đại trong thơ Tố Hữu.

 Tố Hữu đã từng có những bài thơ thế sự độc đáo như Tiếng chuông nhà thờ, Ba tiếng, Thưa các ông nghị. Gần đây, xuân 1981 ta nghe thấy bài Đêm cuối năm sang một giọng thế sự:

Đêm cuối năm, riêng một ngọn đèn
Dở hay khôn dại, những chê khen
Làm ăn hai chữ, khôn mà dại
Thế cuộc nhân tình, rõ trắng đen…


Phải chăng có thể chờ đợi ở nhà thơ những bài thế sự mới? Dẫu sao thơ thế sự không nên chỉ đóng khung trong thơ đả kích, châm biếm, trào phúng.

Thơ ca cách mạng Việt Nam là một nền thơ phong phú về mặt thể tài. Tố Hữu là người mở đầu cho thơ chính trị - đời tư cũng như thơ trữ tình sử thi trong thơ cách mạng Việt Nam. Việc Tố Hữu chuyên chú vào thơ trữ tình sử thi là một hiện tượng hoàn toàn hợp quy luật. Đó là dòng thơ chủ đạo của thời đại chuyển biến của một dân tộc cổ truyền sang một dân tộc hiện đại, dân tộc xã hội chủ nghĩa, là thơ của kỷ nguyên đấu tranh để bảo vệ và phát triển dân tộc trong thời đại mới.

12-1984
TRẦN ĐÌNH SỬ
(12/4-85)



------------
1. Nguyên văn: “miêu tả phong tục, tính nết”.
2. Xem G.N. Pospelôp - Các vấn đề phát triển lịch sử của văn học, M. “giáo dục” 1972, tr.236 - 252 (tiếng Nga).
3. G.Gachep - Tính nội dung của hình thức nghệ thuật. Tự sự, trữ tình, kịch. M. “giáo dục”, 1968, tr.24 (tiếng Nga).
4. Lê Đình Kỵ - Thơ Tố Hữu - chuyên luận. H H. Nxb “Trung học và Đại học chuyên nghiệp” 1979, tr.383.
5. Nguyễn Văn Hạnh. Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu - Nội san trường Đại học sư phạm Hà Nội, N1, 3-1970.
6. Nguyễn Văn Hạnh. Thơ Tố Hữu, Tiếng nói đồng ý đồng tình, đồng chí. Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên Huế, 1980, tr.80.




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.