Đêm thơ "Quê mẹ" kỷ niệm 90 năm ngày sinh và 9 năm ngày mất của nhà thơ Tố Hữu tại Huế
Thơ Tố Hữu được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình gọi là thơ chính trị, thơ thời cuộc, thơ thời sự, thơ cảm hứng xã hội… Theo chúng tôi gọi là thơ chính trị đúng hơn cả, vì trong mọi quan hệ đời sống, trước mọi hiện tượng hiện thực Tố Hữu quan tâm trước hết đến nội dung chính trị của chúng, chứ không phải bản thân các hiện tượng, vấn đề xã hội, hay sự kiện thời sự. Thơ Tố Hữu là thơ khám phá trực tiếp ý nghĩa chính trị của các hiện tượng cuộc đời. Vì vậy tuy thơ nào cũng có liên hệ thế này hay thế khác với chính trị, nhưng không thể đều gọi là thơ chính trị. Và đó là hiện tượng thơ nổi bật của văn học chúng ta, chứng tỏ nhiệt tình của các nghệ sĩ muốn tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh chính trị bằng vũ khí nghệ thuật của mình. Nhưng sẽ sai lầm nếu cho rằng thơ trữ tình chính trị đơn điệu nghèo nàn về mặt thể loại. Chính nghiên cứu loại hình về mặt này sẽ cho ta ý niệm về giới hạn rộng rãi của loại thơ này ở đây, theo chúng tôi, lý luận của G.N.Pospelôp có ý nghĩa đáng kể. Theo Pospelôp, dựa trên kinh nghiệm văn học châu Âu, có thể nhận thấy ba tuyến nội dung thể loại chủ yếu mà chúng tôi gọi một cách qui ước là “thể tài” để phân biệt khái niệm “thể loại”, thiên về chỉ hình thức, phương thức thể hiện đời sống như tự sự, trữ tình, kịch. Thuộc vào thể tài lịch sử dân tộc là các tác phẩm tập trung miêu tả quá trình hình thành dân tộc, cuộc đấu tranh để bảo vệ và xây dựng quốc gia, các sự kiện đấu tranh giai cấp, chiến tranh, cách mạng có ảnh hưởng tới vận mệnh toàn thể nhân dân, dân tộc. Khi tình trạng quốc gia tương đối ổn định, thì vấn đề quan hệ các giai cấp, các tầng lớp người trong xã hội, quan hệ thành thị và nông thôn, trạng thái ứng xử giữa người và người, với thiện ác, các chuẩn mực quan hệ… nổi lên và trở thành nội dung của các tác phẩm thuộc thể tài đạo đức - thế sự (1)… Sự ý thức về đời sống cá nhân, quá trình hình thành của cá tính nhân cách, các xúc động riêng tư, nhất là trong tình yêu đôi lứa, lại là cơ sở của các tác phẩm thuộc thể tài đời tư (2). “Đời tư” ở đây, dĩ nhiên không phải là cái đối lập hay loại trừ “đời công”, bởi vì, thể tài, chẳng những là một loại hiện tượng đời sống được miêu tả, mà còn là một góc độ, một quan điểm “xem xét vấn đề”, “một quan điểm về thế giới đã được cố định lại” (3). Cả ba loại thể tài ấy đều được thể hiện vào các thể loại văn học khác nhau, và có căn cứ để gọi, chẳng hạn thơ trữ tình lịch sử dân tộc, thơ trữ tình thế sự, thơ trữ tình đời tư v.v… Mỗi thể tài như vậy gắn liền với một số tính cách cảm hứng và một hệ thống biện pháp nghệ thuật nhất định. Ở các tác phẩm lớn thường có sự kết hợp các thể tài thành tác phẩm nhiều bình diện. Về sự hình thành và phân hóa các dòng thể tài trong văn học ta chưa được nghiên cứu riêng. Xét riêng về thơ Tố Hữu ta có thể nhận thấy một số đường nét có tính qui luật rõ rệt. Nếu thơ ca các nhà cách mạng đầu thế kỷ và của các nhà cách mạng vô sản nghiêng về thể tài lịch sử dân tộc (thể hiện tình trạng nô lệ của dân tộc, phát hiện lại dòng giống Lạc Hồng, con Rồng cháu Tiên, các sự tích anh hùng, ý chí rửa thù nhà đền nợ nước…) thì thơ văn hợp pháp nghiêng về thể tài thế sự và đời tư. (Văn thơ lãng mạn chủ nghĩa, sáng tác hiện thực phê phán). Vì vậy sự khác biệt của hai loại sáng tác trên không chỉ thể hiện ở thế giới quan, về tư tưởng cách mạng, mà còn khác nhau về thể tài nữa. Sáng tác của Tố Hữu thể hiện một quá trình không ngừng tìm tòi và phát triển thể tài văn học của văn học cách mạng. Xuất hiện trong môi trường thơ văn đương thời, trước hết nhà thơ phải đối thoại với thơ văn thế sự và đời tư. Và như vậy Tố Hữu mở ra một hướng phát triển mới so với thơ văn cách mạng đương thời. Các bài thơ Mồ côi, Tương tư, Hai đứa bé, Vú em, Tiếng hát sông Hương, Lão đầy tớ, Hồn chiến sĩ, Đi đi em, Một tiếng rao đêm… rõ ràng là làm trên cơ sở các mô típ thế sự và đời tư, như cô đơn, lạnh lùng, bị hắt hủi, vùi dập… Nhưng Tố Hữu đã khéo kết hợp các mô típ có tính chất kích động, tuyên truyền như nuôi căm hờn, đợi ngày mai, khinh lối sống ươn hèn, chọn đường đời, dám đứng dậy, phá bất bình, đối lập hai thế giới… Tác giả lồng nội dung chính trị vào thể tài thế sự vào đời tư, làm cho các lý tưởng chính trị trở nên gần gũi. Tố Hữu không tập trung vào việc phê phán tội ác chế độ cũ. Nội dung chính trị của thơ Từ ấy cũng không tập trung ở việc tuyên truyền nội dung đấu tranh giai cấp thuần túy, vạch ra các tội ác bóc lột, tra tấn hoặc thuần túy bày tỏ quyết tâm hy sinh vì cách mạng như phần nhiều thơ ca cách mạng đương thời. Nhà thơ đem lẽ sống cách mạng vô sản, niềm tin vào tương lai cộng sản chủ nghĩa mà soi sáng viễn cảnh của từng cuộc đời khổ tủi, vô vọng riêng tư. Tố Hữu, nhà thơ đầu tiên đưa vấn đề quan hệ giữa số phận cá nhân và cách mạng xã hội làm thành chủ đề trung tâm của thơ. Cách mạng xã hội là con đường duy nhất để đổi thay cuộc đời cá nhân và mỗi cá nhân phải đứng lên làm cách mạng, hy sinh cho cách mạng. Tố Hữu tạo ra một vạch nối giữa số phận cá nhân của vú em, gái giang hồ, đời thợ, em bé bán dạo, trẻ mồ côi, lão đầy tớ, người Thượng già… với viễn cảnh cách mạng. Tác giả nhìn cách mạng từ nhu cầu giải phóng của từng cá nhân. Cái nhìn nhà thơ xoáy vào nỗi khổ tâm của họ như bị hắt hủi, bị đè đầu, bị bỏ rơi, không biết đến ngày vui, sống như “trâu chó”, và quan tâm đến khát vọng đổi đời của họ. Nhà thơ đã dựng lên được nỗi khát vọng khắc khoải của cô gái sông Hương, nỗi khổ tâm nhức nhối của người thợ, nỗi đau đớn quằn quại của người Thượng già, mối đồng cảm sâu nặng của người lính đêm, bóng dáng yếu đuối non tơ của em bé bán dạo… Cuối mỗi bài như vậy, khi thì gợi lên niềm uất hận, khi thì gợi lên niềm tuyệt vọng đối với xã hội cũ, khi thì gợi lên tình cảm phản kháng, hướng về tương lai. Có thể nói đó là thể tài thơ chính trị đời tư rất tiêu biểu cho phần lớn thơ Từ ấy và Việt Bắc. Có lẽ không nên cho rằng chỉ có bài Tiếng hát trên đê mới là tiếng dạo đầu cho phong cách thơ Việt Bắc. Sự thực thì ngòi bút trữ tình giàu khả năng quan sát chân dung quần chúng tinh tế của Từ ấy đã chuẩn bị cho những dòng thơ miêu tả đồng bào và chiến sĩ ở Việt Bắc. Thiết tưởng cũng không nên thổi phồng “bước ngoặt”, bước chuyển biến hẳn giữa phong cách Từ ấy và Việt Bắc là khắc họa được tinh thần làm chủ, niềm tin và sức vươn lên khỏe khoắn của quần chúng, nhưng đó là nội dung của một thời đại mới. Còn cái lặp lại về mặt thể tài vẫn rất rõ: tuyên truyền kháng chiến từ phía số phận và nhu cầu nhân cách của các cá nhân: cô gái Bắc Giang, anh Vệ sơn cốt, em Lượm, bà mẹ Việt Bắc, bà bủ, bà bầm… Đó là một lối thơ chính trị mềm mại, uyển chuyển, thấm thía. Thơ trữ tình đời tư đòi hỏi thể hiện các cảm xúc tâm trạng cá nhân của cái “tôi” của con người bình thường. Các mô típ tiêu biểu của nó là sự lầm lỡ, hối hận (Con chim của tôi), những mất mát cá nhân (Đi đi em, Hai cái chê), các xúc động bồng bột phi chuẩn mực (Vui bất tuyệt, Tranh đấu), những nỗi ưu tư, u uất (Quanh quẩn, Lao Bảo, Khi con tu hú), những nỗi nhớ nhung cháy lòng (Nhớ đồng, Nhớ người), những phút phản tính (Tâm tư trong tù, Con cá chột nưa, Năm xưa…). Cái mới ở đây là Tố Hữu đã đưa tình cảm cách mạng nhất là lý trí cách mạng vào thế giới cảm xúc cá nhân, làm sâu sắc và đổi mới cảm xúc ấy, hướng nó phát triển về phía cách mạng. Bên cạnh chủ đề nuôi căm hờn, Tố Hữu nhấn mạnh tình cảm gắn bó tha thiết với đồng bào, đồng chí, với hoạt động. Cảm giác “cô đơn thấm lạnh” và nỗi “buồn quanh quẩn” của Tố Hữu ở trong tù là rất mới. Đó là ý thức về tập thể, về sự “xa tạm ngọn cờ”. Cái “buồn cô liêu” là vì phải “xa rời bóng dáng yêu thương cũ”. Tình cảm “ngao ngán” là sự phủ định hiện trạng - không nên qui giản đơn các loại tình cảm “đời tư” ấy vào phạm trù tình cảm ủy mị tiểu tư sản. Chính các tình cảm ấy giục giã tác giả đấu tranh, tổ chức vượt ngục, trở về với đồng chí và hoạt động. Nếu xóa bỏ hết các nét tình cảm đời tư ấy thì nội dung trữ tình cách mạng sẽ đơn điệu, một chiều biết bao! Nhà phê bình Lê Đình Kỵ đã nói rất đúng: “Nếu đánh giá không đúng cái buồn trong sáng tác văn thơ thì sẽ cắt đứt một mạch cảm hứng trữ tình lành mạnh có ngọn nguồn trong đời sống thực tế và tâm tư con người” (4). Kết hợp chủ đề chính trị với thể tài đời tư Tố Hữu về căn bản tránh được bệnh ấu trĩ tả khuynh thường gặp của thơ ca vô sản những năm 20, cho rằng thơ ca chính trị là cái loa của tư tưởng quần chúng, là thơ khẩu hiệu trừu tượng, phủ nhận cái “tôi”, phủ nhận tác giả. Nhiều tác giả lỗi lạc của thơ ca xã hội chủ nghĩa thời đó như Mai-a-cốp-xki, Brô-ni-ép-xki, At-ti-la Giô-xép, Nê-dơ-van, Bê-sơ, Hai-nơ… đều ít nhiều có lúc chịu ảnh hưởng của khuynh hướng đó. Từ cuối tập Việt Bắc trở đi, thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu chuyển sang thể tài lịch sử dân tộc. Anh Nguyễn Văn Hạnh đã nhận định chính xác khi cho rằng từ cuối tập Việt Bắc thơ Tố Hữu có “thiên hướng khái quát tổng hợp” (5). Nhưng từ “tổng hợp” không thật chính xác. Sau này nhà phê bình nói rõ hơn “Cảm hứng sử thi” (6). Đúng như vậy, từ đây nhà thơ bắt đầu suy nghĩ các vấn đề chính trị trên cấp độ số phận dân tộc và đất nước. Con người trữ tình trong Ta đi tới, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Bắc… dù là “ta”, là “mình”, thảy đều là một cái “tôi” đất nước, dân tộc. Với sự khác nhau về thể tài này, ta sẽ thấy đòi hỏi cái vui trong Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt phải chững chạc như trong Ta đi tới là thiếu căn cứ biết chừng nào! Dĩ nhiên ở Từ ấy đã có yếu tố sử thi trong Dậy lên thanh niên, Quyết hy sinh, Bà má Hậu Giang, nhưng từ nay nó mới là thể tài chủ đạo. Từ đây, số phận đất nước, sức mạnh dân tộc, nhân dân, Đảng là đối tượng suy nghĩ trực tiếp, chủ yếu của nhà thơ: Ta đã lớn lên rồi trong khói lửa Chúng nó chẳng còn mong được nữa Chặn bàn chân một dân tộc anh hùng… Chào 61, đỉnh cao muôn trượng Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng Trồng lại nghìn xưa, trông tới mai sau Trông bắc trông nam trông cả địa cầu. Ta sẵn sàng xé trái tim ta Cho Tổ quốc và cho tất cả Lá cờ này là máu, là hoa Của ta, của con người vô giá… Cuộc đời số phận của cá nhân, khác với thể tài đời tư, ở đây được đánh giá theo góc độ đóng góp của nó cho sự nghiệp của dân tộc, nhân dân và Đảng Trắng khăn tang em chẳng khóc đâu Hỡi em gái mất cha mất mẹ Nước mắt rơi, làm nhòa mặt quân thù Em phải bắn trúng đầu giặc Mỹ (Việt Nam, máu và hoa) Chuyện cô du kích xóm Lai Vu Rắn quấn bên chân vẫn bắn thù “Mỹ hại trăm nhà, lo diệt trước Rắn, mình em chịu, có sao đâu!” (Tâm sự) Sự thay đổi góc độ nhìn nhận sẽ làm thay đổi lô gic cảm thụ của thể tài. Chẳng hạn, ta dễ chấp nhận khi Tố Hữu viết những câu thơ hay trong Người con gái Việt Nam: Ôi trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi, còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho tổ quốc, loài người. Câu thơ thứ ba, diễn đạt dứt khoát tư tưởng “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”, gây một cảm giác tự nhiên. Trái lại, trong bài Đời thơ (Từ ấy) có câu: Chừ sao đây? Kéo cờ trắng đầu hàng Hay chuyển sức trăm cân đầu búa sắt Gạt phăng hết những tình riêng nhỏ nhặt Để tay ghì riết chặt khối đời to? thì câu thứ ba lại thường được trích dẫn như là bằng chứng của thế giới quan non yếu, tiểu tư sản. Có ý kiến lại cho rằng đó là cách nói thiếu uyển chuyển, cách nói của tuổi trẻ sôi nổi. Theo chúng tôi, chỗ “sai” trong trường hợp trên không ở nguyên nhân tư tưởng, cũng không ở cách nói thiếu uyển chuyển mà ở bản thân thể tài. Tác giả đã kết hợp không nhuyễn một tư tưởng sử thi ngay tiếp sau câu tư tưởng có tính chất đời tư. Hy sinh tình cảm riêng cho sự nghiệp là một tư tưởng đúng. Nhưng lại nêu vấn đề “gạt phăng” ngay sau khi nêu nỗi thống khổ của vợ con thì lại không thích hợp. Sử thi là sự nhìn nhận con người qua giác độ xã hội dân tộc. Tác giả sử thi tư duy bằng dân tộc xã hội, nhân loại, khác với thể tài đời tư nhìn xã hội, dân tộc qua tình cảnh và số phận cá nhân. Sử thi đòi hỏi các sự kiện lớn như chiến tranh, cách mạng. Đó là các sự kiện ôm trùm tất cả, đòi hỏi phải động viên sức lực, tâm huyết của cả một dân tộc. Sử thi đòi hỏi mọi người phải đối xử với nhau như anh em, đồng chí, bạn bè, đòi hỏi mọi người phải lớn như nhau trong tầm vóc quốc gia. Sử thi là sự khẳng định dân tộc trong cơn nguy biến. Khẩu hiệu của sử thi là “Tổ quốc hay là chết!”. Tình huống sử thi đặt con người trước sự nghiệp anh hùng, đòi hỏi con người trở thành anh hùng đại diện dân tộc. Bác Hồ, chị Lý, anh Trỗi, anh Môrixơn trong thơ Tố Hữu đều là con người sử thi, cả mẹ Suốt, bà má Hậu Giang, mẹ Tơm Thanh Hóa… cũng đều là con người sử thi cả. Tư duy trên tầm sử thi cho phép nhà thơ thể hiện tập trung vấn đề cách mạng và dân tộc, dân tộc và nhân loại, dân tộc và thời đại, dân tộc hiện đại và truyền thống. Không phải ngẫu nhiên mà ở giai đoạn sau, các vấn đề trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng là các vấn đề đặt ra giữa “ta” và “nó”, giữa “chúng ta” và “chúng nó”, giữa “miền Bắc” và “miền Nam”, giữa “ta” và “ta”. Hoàn toàn đó không phải là vấn đề giữa cá nhân này và cá nhân khác như trong thể tài đời tư. Không cứ là sử thi thì đều hay hơn thể tài đời tư. Vấn đề là sử thi đem lại một tầm vóc khái quát và suy nghĩ trên các vấn đề lớn mà thơ thể tài đời tư không có được. Chẳng hạn bài Quê hương- một bài thơ hay của Giang Nam, thuộc thể tài đời tư. Cuối bài Giang Nam kết luận: Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm Có những ngày trốn học bị đòn, roi… Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi. Bài Quê mẹ của Tố Hữu cũng nói tình yêu quê hương, nhưng cấp độ sử thi cho phép nhà thơ nghĩ đến: Ôi Huế nghìn năm, Huế của ta. Đường vào sẽ nối lại đường ra Như con của mẹ về quê mẹ Huế lại về vui giữa Cộng Hòa! Chính vì sử thi là một cấp tư duy nghệ thuật nên nó cần thiết để thể hiện tầm vóc con người thời đại cũng như trách nhiệm lớn lao của nó đối với đất nước. Khi gọi thơ Tố Hữu từ cuối tập Việt Bắc trở đi là thơ trữ tình sử thi là muốn nói tới phương diện thể tài của nó, chứ không phải là thể loại thì sử thi là tự sự, và trữ tình sử thi không phải là một thứ tác phẩm tự sự trữ tình. Nó vẫn là thơ trữ tình nhưng mang quan điểm sử thi. Quan điểm sử thi, ngoài thể hiện ở cái “ta” dân tộc, ở đối lập “chúng ta - chúng nó”, còn thể hiện ở khả năng sử thi hóa các hình ảnh, từ ngữ của các thể tài khác. Chẳng hạn, Thạch Sanh, một hình tượng thế sự khi vào thơ Tố Hữu đã trở thành hình tượng sử thi đầy khí phách hào hùng: Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi Một giây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ Cách xưng hô “mình-ta” trong Việt Bắc hay “anh-em” trong Gió lộng thật ra là cách xưng hô sử thi, khác cách xưng hô đời tư trong ca dao trữ tình dân gian hoặc thư tình. Cái “trăm năm” trong câu “khao khát trăm năm mãi đợi chờ. Hôm nay vui đến ngỡ trong mơ” hay “Mắt ướt trăm năm đã hé cười”… không phải là trăm năm đời người mà là “trăm năm mất nước mất nhà”, mang nội dung lịch sử dân tộc. Việc học tập sử dụng truyền thống văn học và dân gian ở Tố Hữu không giản đơn là “Tiếp thụ có sáng tạo”, mà còn là theo nguyên tắc vận dụng quan điểm dân tộc vốn có của truyền thống, hoặc đổi mới theo hướng sử thi hóa. Khi Tố Hữu nói: Ngẩng đầu lên trong sáng tuyệt trần Tháng tám trời thu xanh thẳm Hay tả: Đồng lúa làng tre nắng vàng rắc phấn Sương lung linh núi gấm mây tơ Như trong mơ… không biết tự bao giờ Nghìn năm cũ đang hồi xuân thắm lại… Hay ngắm: Ôi những nàng xuân rất dịu dàng Hát câu quan họ chuyến đò ngang Nhẹ nhàng tay cấy bên sông ấy Súng khoác trên lưng chẳng ngỡ ngàng… Thì đó cũng đều là những phong cảnh mang tính chất sử thi. Nếu như thơ trữ tình đời tư hạn chế trong việc trực tiếp nêu lên các vấn đề về quốc gia, dân tộc thì trái lại sử thi hạn chế trong việc thể hiện các vấn đề thuộc số phận cá nhân. Việc kết hợp hai loại thể tài ấy là điều cần thiết và có thể làm được để làm phong phú tiếng thơ. Mai-a-côp-xki đã “đạt sự tổng hợp tình cảm cá nhân và nghĩa vụ xã hội”. Trong khuôn khổ thơ trữ tình chính trị, yếu tố lịch sử dân tộc của thơ Tố Hữu ngày càng chiếm ưu thế tuyệt đối. Cá nhân trong thơ Tố Hữu căn bản là một cá nhân của dân tộc. Tính tổng hợp thơ Tố Hữu theo một phương hướng khác, tổng hợp tư tưởng chính trị hiện đại: tư tưởng xã hội chủ nghĩa với tư tưởng, tình cảm dân tộc truyền thống. Đó cũng là cơ sở của tính dân tộc hiện đại trong thơ Tố Hữu. Tố Hữu đã từng có những bài thơ thế sự độc đáo như Tiếng chuông nhà thờ, Ba tiếng, Thưa các ông nghị. Gần đây, xuân 1981 ta nghe thấy bài Đêm cuối năm sang một giọng thế sự: Đêm cuối năm, riêng một ngọn đèn Dở hay khôn dại, những chê khen Làm ăn hai chữ, khôn mà dại Thế cuộc nhân tình, rõ trắng đen… Phải chăng có thể chờ đợi ở nhà thơ những bài thế sự mới? Dẫu sao thơ thế sự không nên chỉ đóng khung trong thơ đả kích, châm biếm, trào phúng. Thơ ca cách mạng Việt Nam là một nền thơ phong phú về mặt thể tài. Tố Hữu là người mở đầu cho thơ chính trị - đời tư cũng như thơ trữ tình sử thi trong thơ cách mạng Việt Nam. Việc Tố Hữu chuyên chú vào thơ trữ tình sử thi là một hiện tượng hoàn toàn hợp quy luật. Đó là dòng thơ chủ đạo của thời đại chuyển biến của một dân tộc cổ truyền sang một dân tộc hiện đại, dân tộc xã hội chủ nghĩa, là thơ của kỷ nguyên đấu tranh để bảo vệ và phát triển dân tộc trong thời đại mới. 12-1984 TRẦN ĐÌNH SỬ (12/4-85) ------------ 1. Nguyên văn: “miêu tả phong tục, tính nết”. 2. Xem G.N. Pospelôp - Các vấn đề phát triển lịch sử của văn học, M. “giáo dục” 1972, tr.236 - 252 (tiếng Nga). 3. G.Gachep - Tính nội dung của hình thức nghệ thuật. Tự sự, trữ tình, kịch. M. “giáo dục”, 1968, tr.24 (tiếng Nga). 4. Lê Đình Kỵ - Thơ Tố Hữu - chuyên luận. H H. Nxb “Trung học và Đại học chuyên nghiệp” 1979, tr.383. 5. Nguyễn Văn Hạnh. Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu - Nội san trường Đại học sư phạm Hà Nội, N1, 3-1970. 6. Nguyễn Văn Hạnh. Thơ Tố Hữu, Tiếng nói đồng ý đồng tình, đồng chí. Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên Huế, 1980, tr.80. |
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.