Nửa món quà tặng

09:46 23/09/2009
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

Gia đình chúng tôi sống trong khu phố lao động. Bố tôi làm công tại một nhà hàng, còn chúng tôi vừa học vừa làm thêm để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Hai anh em tôi kín đáo kể với bố nghe về dự định của mình. Bố hân hoan:
- Các con giỏi lắm! Mẹ chắc sẽ sung sướng.
Chợt nét mặt bố đăm chiêu. Tôi nhận ra điều suy tư của người. Những toan tính đồng tiền bát gạo hằn lên nếp nhăn của bố.
- Các con định tặng cho mẹ món quà gì? Bố hỏi.
- Bí mật bố ạ. Anh tôi cười bí ẩn. - Chúng con sẽ tặng mẹ những món quà xứng đáng. Rồi bố sẽ biết thôi.

Những ngày tiếp theo chúng tôi tham gia trò chơi bí mật về món quà. Chúng tôi vui vẻ hẳn lên. Không khí gia đình cũng trở nên đâçm ấm. Hai anh em tôi kháo nhau xem ai là người có món quà được mẹ ưa thích nhất. Anh tôi mới 14 tuổi nhưng tỏ khôn ngoan khi nghĩ ra một món quà giá trị theo như anh nói. Riêng tôi với số tiền ít đủ để mua một chiếc lược đẹp có gắn những viên đá màu.

Vào sáng sớm ngày lễ, anh bảo tôi bám sát theo anh. Thoáng thấy mẹ đang chuẩn bị lau chùi nhà anh làm ám hiệu và chúng tôi chạy đi lấy món quà.
Mẹ đang lau nhà bằng một bàn chải to tướng cũ kỹ. Trông mẹ làm việc uể oải. Tôi hình dung đây là công việc mẹ chán nhất trên đời.

Anh nhanh nhẹn tiến về phía mẹ với món quà trên tay. Mẹ tôi liếc nhìn. Trông mẹ buồn bã làm sao. Tôi nhìn món quà của anh. Một cái xô đựng nước và cái bàn chùi mới. Giọng mẹ bực tức:
- Món quà tặng cho mẹ đây ư?

Khuôn mặt anh tôi đầm đìa nước mắt. Anh thất thểu bước xuống cầu thang gỗ. Tôi nhét chiếc lược vào túi theo chân anh. Nước mắt tôi hoà cùng anh. Chúng tôi gặp bố giữa cầu thang. Bố tôi hiểu ra mọi chuyện.
- Để bố lên nói chuyện với mẹ. Ông cầm cái xô từ tay anh rồi bước lên cầu thang.
Tôi đếm từng bước chân nặng nề của mình. Mẹ tôi đang cọ rửa trong phòng. Không gian chậm chạp và u buồn. Bố tôi lặng lẽ cầm miếng giẻ lau khô vũng nước nhỏ.
- Mẹ nó à! Đừng làm cho con buồn như vậy. Món quà của con sẽ giúp ích nhiều cho mẹ nó đấy chứ. Từ đây nó sẽ phụ mẹ một phần công việc. Phải vậy không con?

Khuôn mặt anh tôi ngời ngời hạnh phúc:
- Dạ. Đúng vậy thưa bố mẹ.
Mẹ tôi ôm hôn anh, rồi quay sang nhìn tôi. Bố tôi nhanh như tia chớp:
- Món quà con tặng mẹ đâu rồi?

Tôi cảm thấy chiếc lược trong túi động đậy. Cái lược đang biến thành cái xô như cái của anh tôi: - Đúng là cái xô rồi. Tôi thầm nghĩ. Bỗng nhiên những viên đá quý trên chiếc lược biến thành những viên kim cương. Tôi rầu rĩ:
- Món quà của con tặng mẹ chỉ bằng nửa cái xô của anh con thôi.

NGÔ THIÊN THU lược dịch
(188/10-04)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HANS CHRISTIAN ANDERSON   

    Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.


  • George Saunders - Franz Kafka

  • Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
    Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
                                  Dương Đức dịch và giới thiệu

  • Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.

  • AMOS OZ

    Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.


  • ALBERTO MORAVIA

  • KATHERINE MANSFIELD (Anh)     

    Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.

  • Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).

  • Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.

  • MARK TWAIN  

    M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.

  • L. TOLSTOY

    Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).

  • VẠN CHI (Trung Quốc)

    Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.

  • Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.

  • Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.

  • SAKI   

    1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.

  • Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.

    Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.

  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.