Nơi con chim trả tắm ngã ba sông

09:13 10/09/2025
Dăm năm rồi tôi không có dịp về lại Ninh Bình, vùng đất cố đô non xanh nước biếc như tranh đã mê hoặc tôi tự thuở nào.

Ninh Bình đẹp và thơ, hoài cổ và đầy sinh khí, chỉ nhắc tên thôi đã thấy lòng xao xuyến như câu ca dao:

“Ai về qua đất Ninh Bình
Mà xem phong cảnh hữu tình nên thơ
Nước non, non nước như mơ
Càng nhìn Dục Thúy càng ngơ ngẩn lòng”.

Không ngơ ngẩn sao được trước bao thắng tích hóa công khéo tạo dựng, là Dục Thúy, Tam Cốc - Bích Động, Tràng An, Vân Long… là những di tích lịch sử gắn với Cố đô Hoa Lư, đền vua Đinh, vua Lê và nhiều danh nhân kiệt hiệt khác. Nhưng ngơ ngẩn trước hết với tôi là Dục Thúy Sơn, mỗi lần đến Ninh Bình mỗi lần ghé, mỗi lần viếng cảnh mỗi lần đắm say. Lúc hoàng hôn, tôi tản bộ dọc sông Vân ngắm hàng liễu thướt tha rủ bóng đê vàng. Dục Thúy im lìm trong tà dương, chừng như nghe thấy tiếng tiêu tưởng tượng trên lầu mây, gấm lụa của trời bày ra trước mắt những phiêu bồng. Bóng tối đương tràn đến gặm nhấm từng con đường sâu kín, tịch liêu. Đàn đom đóm bay lên từ bãi cỏ tưởng ngàn sao rơi xuống chân Dục Thúy chuyện trò. Bạn đi cùng đọc câu thơ bâng quơ, quạt mùa thu sang miền non nước. Kia chẳng phải sông Đáy, sông Vân lung linh đáy nước in vàng bóng trăng. Sóng vỗ chân Dục Thúy như ngày nào từng lớp chinh phu kỳ tụ tại cửa Hải Đài mà theo chân vua Lê ra biên ải phá Tống, bình Chiêm. Bao người thiếu phụ ngồi bên song cửa chờ thư hồng nhạn đem về mà biệt bóng trăng. Có lẽ, họ đã nhớ nhung nhiều khiến vạt áo đẫm nước mắt làm đứt ruột đêm thu vạn cổ.

Kim Hòa, người chị Ninh Thuận bảo tôi cho chị một lần ra triền đê sông Đáy ngắm bình minh, ngắm Dục Thúy Sơn cho thỏa. Tầm năm giờ sáng, chúng tôi bon bon trên chiếc xe máy mượn người bạn văn. Trời còn lờ nhờ, đường vắng bóng người. Ra đến đê, trời hồng rạng rỡ. Vầng dương từ phía đông chầm chậm nhô lên, mặt sông như thắp lửa. Đứng trên đê sông Đáy, Dục Thúy xanh biếc trong ánh sáng đầu ngày. Nước nổi mênh mông tưởng triều chạm ghềnh đá. Thuyền câu biệt tích, chỉ những chiếc sà lan chở cát lướt trên mặt sông. Duy Dục Thúy vẫn đó, mãi trầm mặc bên sông, thơ khắc mây bềnh bồng năm tháng. Lòng bâng khuâng nhìn bốn phía, nước non kia thầm thỉ nỗi gì. Tìm cố nhân để hỏi chuyện cũ, chúng tôi ghé đền thờ Trương Hán Siêu khi nghe danh cụ thủ từ Nguyễn Ngọc Điến. Đền thờ danh nhân Trương Hán Siêu ngay dưới chân núi Dục Thúy. Đền được xây dựng năm 1998, kiến trúc theo kiểu chữ đinh, gồm 3 gian bái đường và 2 gian hậu cung, hai tầng mái lợp bằng ngói. Trên nóc đền có lưỡng long chầu nguyệt. Mặt tiền của đền có bức đại tự viết bằng chữ Hán “Trương Thăng Phủ Từ”. Tiếp chúng tôi là một cụ già tóc bạc, cụ sinh năm 1932, vừa bước qua tuổi 92. Cụ nguyên là cán bộ Ban Tổ chức huyện ủy Yên Mô, sau đó đi bộ đội rồi về thị xã Ninh Bình. Cụ Nguyễn Ngọc Điến tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong kháng chiến chống Pháp, cụ tham gia phục vụ căn cứ Non Nước này. Thời chống Mỹ cụ làm nhiệm vụ ở trận địa trên chính quê hương Ninh Bình. Cụ kể rằng thời chiến bom Mỹ từng đánh vào đền cổ này vì lúc đó có Quân Y viện 5 đóng ở đây. Ác liệt nhất là đánh sập liên tiếp vào cầu A2 - A3. Một số trận, quân Mỹ còn bắn cả tên lửa nhưng không hư hại nhiều, chỉ ảnh hưởng ở chân núi.

Lúc gặp chúng tôi, cụ đang bị đau chân, phải ngồi xe đẩy để di chuyển. Tôi hỏi: “Cụ làm thủ từ lâu chưa ạ?”. Cụ trả lời: “Từ ngày thành lập đền cho đến nay. Tôi có cái duyên, được người quen giới thiệu. Ông ấy bảo bây giờ đền Trương Hán Siêu gần khánh thành rồi nhưng tìm người thủ từ chưa có, bác có giữ được không để tôi giới thiệu”. Vậy là cụ Điến đồng ý. Sau đó, lãnh đạo Thị ủy mời cụ lên gặp và ủy lạo: “Mọi việc trông nhờ vào bác. Đây là chốn linh thiêng mà người dân Ninh Bình phục dựng lại để tưởng nhớ danh nhân Trương Hán Siêu. Nhờ bác trông coi đền hộ cho thị xã”. Tính đến nay đã hơn hai mươi lăm năm cụ hương khói, coi sóc đền, lúc sức khỏe yếu, con gái cụ là chị Hạnh thay cha tiếp đón khách thập phương. Đền quanh năm khách viếng, nhiều nhất là các sĩ tử mỗi kỳ thi đến thắp nhang, cầu sự học, đỗ đạt. Cụ cũng vinh dự hai lần được đón Chủ tịch nước ghé thăm đền, chúc sức khỏe. Cụ Nguyễn Ngọc Điến bắt đầu kể cho chúng tôi nghe chuyện xưa, tích cũ về núi Dục Thúy.

*

Dục Thúy có nhiều tên gọi như Băng Sơn, Lạc Thúy, Sơn Thúy, Hải Đài, tên nào cũng đẹp và đầy hình tượng. Tên gọi Dục Thúy Sơn (浴翠山) do chính Trương Hán Siêu đặt, lẽ vì Dục Thúy tọa lạc ở khu vực ngã ba sông Vân, sông Đáy, dáng hình giống con chim trả đương tắm ở chỗ dòng nước xanh biếc. Dục là tắm, Thúy là chim trả. Vậy chim trả là chim gì để Trương Hán Siêu lấy làm biểu tượng cho ngọn núi bên dòng sông Vân. Tôi tra sách cổ mới biết rằng chim trả (hoặc chả) có Hán tự tên là chim phỉ thúy (翡翠) hay phí thúy, do lông màu xanh như ngọc phỉ thúy, mà loại này vốn là ngọc quý, màu xanh biếc, cực đẹp. Ngọc phỉ thúy là tên gọi phần đẹp và giá trị nhất của khối đá cẩm thạch (Jadeite), một loại đá quý silicat của natri, nhôm và sắt, thuộc nhóm pyroxene. Trong văn hóa Á Đông, phỉ thúy được tôn sùng vào loại bậc nhất ở sự quý giá, tính vương giả như người Hoa xưa đã từng có câu: “Vàng bạc dễ kiếm - Phỉ thúy khó cầu” đủ để thấy giá trị và ý nghĩa của ngọc phỉ thúy. Trong bảng màu sắc, tên ngọc được gọi màu xanh phỉ thúy. Chim trả thường sống ven sông, thường bắt cá, tôm: “Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả” nên cũng gọi là chim bói cá. Chim có đầu màu xanh đen, mỏ dài và thẳng, đuôi ngắn và đặc biệt bay rất nhanh. Thân, cánh chim có màu xanh phỉ thúy, lấp lóa sáng mỗi lần chim cất cánh và quý nhất là lông chim trả thường được sử dụng làm thứ trang sức cho vương tôn quý tộc. Trong văn hóa, nhất là trong Đường thi, từ những thứ to tát như lều trướng tới những vật nhỏ mọn như trang phục, chiếc nhẫn hay xà tích của những mệnh phụ đều được điểm xuyết bằng những ngù lông chim trả, được những vần thơ ca tụng. Hay như phỉ thúy liêm là bức rèm có đính lông chim trả vô cùng quý giá. Lý Bạch trong Cung trung hành lạc kỳ 2 có nhắc: “Lầu vàng treo chim trả, Điện ngọc nhốt uyên ương”1. Đấy là ví nàng Triệu Phi Yến ở cung Chiêu Dương đời Hán sắc liễu nõn nà như vàng ngọc, da trắng tuyết ngát hương thơm, thân thể uyển chuyển nhẹ nhàng như đón gió mà bay múa, tiếc là phận đa đoan, hồng nhan họa thủy, cung khuyết sớm quạnh hiu rồi bị bức tử khi xuân sắc đương thì. Truyền thuyết kể rằng Phi Yến có thể đứng trên lòng bàn tay người mà phất phới ống tay áo múa ca tựa như tiên trời giáng và chỉ với một chiếc váy tím Vân Anh đi vào hồ Thái Dịch, cổ nhạc ngân, nàng khởi vũ để gió thổi bay lên không như cánh chim. Chim trả còn đi vào thơ Đỗ Phủ nhân một hôm Thi thánh đứng trước dòng sông mùa xuân, thấy mảnh hoa lả tả bay, gió phát đi muôn lối, cảnh vật u sầu, môi đương rượu nhấp chợt thấy bên có con chim trả đang làm tổ, cạnh đó vườn xuân có gò mả cao tựa con kỳ lân đang ngủ nên cảm tác rằng: “Nhà nhỏ bên sông tổ chim trả/ Cạnh mộ nằm yên tượng kỳ lân”2 (Khúc giang kỳ 1).

Nhắc đến Dục Thúy không thể không nhắc đến Trương Hán Siêu với bài bi ký Tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy với văn phong khoáng đạt, lời lẽ trác tuyệt và là người đầu tiên đề thơ lên núi với nhan đề Dục Thúy Sơn. Trương Hán Siêu (? - 1354) là người làng Phúc Thành, nay gọi là Phúc Am, thuộc thành phố Ninh Bình. Ông là nhân vật lỗi lạc thời Trần được sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định: “Trương Hán Siêu là ông quan văn học vượt hẳn mọi người”. Thực tại và học vị của ông đều đầy đủ, có phần nổi trội hơn so với người cùng thời. Ông từng làm thư nhi trong doanh Trần Hưng Đạo mưu sự việc đánh giặc Nguyên - Mông, làm quan trải bốn triều vua, nhà vua đều gọi bằng thầy chứng tỏ tài năng, đức độ, uy tín của ông trong chốn quan trường. Bạch Đằng giang phú là trước tác của ông để lại khắc họa dòng sử anh hùng chống giặc phương Bắc, lưu danh thiên cổ: “Sông Ðằng một dải dài ghê/ Luồng to sóng lớn dồn về bể Ðông/ Trời Nam sinh kẻ anh hùng/ Tăm kình yên lặng, non sông vững vàng”3. Trương Hán Siêu sinh ra và lớn lên ở đất Ninh Bình, sớm đã biết vẻ đẹp thiên tạo của Dục Thúy. Trên núi ấy xưa có tháp Linh Tế được xây dựng vào năm 1091 dưới thời vua Lý Nhân Tông bốn phương ca tụng. Ấy vậy mà vào thời của ông ngọn tháp đã đổ nát, trèo lên tận đỉnh cheo leo chỉ thấy nền hoang, ngói vỡ, cỏ cây rậm rạp, không người tới lui khiến lòng người không khỏi bùi ngùi. Trương Hán Siêu phải thốt lên: “Sao sự hưng vong thành bại mới trải hai trăm mấy mươi năm mà đã trở thành dấu vết cũ kỹ?”. Tháp Linh Tế một thời thắng cảnh bỗng thành hoang phế ấy là quy luật của đất trời nắng mưa vần vũ, của cõi người đắm chuyện can qua, hết bình Tống rồi đánh Nguyên, biết sống còn mà quên tu tạo. Nơi bốn phương tụ họp vãn cảnh, bừng sinh khí của một điểm văn hóa của vùng đất văn vật, ấy vậy mà “Từ có vũ trụ đã có núi này, khách lên núi dạo chơi rồi vắng bóng, không biết đã bao người?”. Nghĩ được cái ý này quả cụ Trương Hán Siêu thấy được lẽ hóa công, núi có trước từ ban sơ, người có sau nhưng rồi vắng bóng. Ai đếm được dấu chân của khách du những lần lên Dục Thúy, ai biết được bao người đã mang cái đẹp của đất trời ủ ấp trong lòng trước núi Thúy sông Vân. Trương Hán Siêu chỉ còn được về thăm chốn xưa trong giấc mộng, trong lần vỗ tấm bia trên vách núi, cạo rêu mà đọc chuyện xưa. Nhân đó nhà sư Trí Nhu trụ trì chùa Non Nước (tên tự là Sơn Thủy) phát động khởi công xây dựng lại vào năm 1337 dưới thời vua Trần Hiến Tông, hoàn thành vào năm 1343 dưới thời vua Trần Dụ Tông. Lúc này, Trương Hán Siêu là đại thần của nhà Trần được quê hương trân trọng mời viết bài minh rồi cho khắc vào sườn núi, lưu danh cho tới mãi sau này. Cụ đã cảm tấm lòng của vị thiền sư già thâm hiểu tôn chỉ của phái Trúc Lâm, giơ hai bàn tay không mà làm nên việc lớn. Sư Trí Nhu thuật lại cho ông nghe những chuyện kỳ lạ khi khởi công như chuyện một nhà sư tới xem đất đêm về mơ có hơn nghìn người tụ họp ở đỉnh núi, trong đó có ba vị quý nhân, tướng mạo khác thường nói rằng: “Các ngươi nên biết xây tháp là một việc tốt đẹp để cứu vớt chúng sinh thoát khỏi tam đồ”. Khi xây tháp, lại chiêm bao thấy sư Pháp Loa, tổ thứ hai của dòng Thiền Trúc Lâm kết ấn giữ cho tháp vững. Chuyện khác cũng ly kỳ không kém là có hai nhà sư đang làm việc xây đường vào tháp thì bị một tảng đá lớn rơi trúng, cả người và đá lăn đi mấy vòng, tưởng thịt nát xương tan nhưng khi vực dậy tuyệt không bị thương ở chỗ nào. Những chuyện này cụ Trương Hán Siêu đều thuật lại, ý tán thành cho không phải là quái đản mà xưa và nay đều phù hợp, là phép nhiệm màu của Đức Phật, đầy sự linh ứng. Tháp Linh Tế khi khánh thành có 4 tầng, đêm tỏa hào quang trên Dục Thúy Sơn người xa gần đều trông thấy rõ. Cảnh trí ấy rót an nhiên vào lòng người, đưa thanh tịnh, từ bi phủ lên miền non nước. Đó là công lớn của những bậc thiện tri thức như sư Trí Nhu và đồng đạo, nói như cụ Trương là lấn chân mây, xếp từng hòn đá, từ một tấc đến một thước, từ một thước đến một nhận (bằng 7 thước), một bước tiến thêm một bước, một tầng cao thêm một tầng, tới lúc tháp cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tranh công xây dựng cùng tạo hóa… Minh văn Trương Hán Siêu khiến cho tháp Linh Tế đã rạng rỡ nay càng rạng rỡ, đã kỳ quan thêm được kỳ quan. Tiếc là ngày nay tháp Linh Tế không còn, gần 700 năm đã trôi qua trên Dục Thúy chỉ còn một số công trình nhỏ mới phục dựng. Điều này cũng nằm trong dự liệu “Than ôi, mai sau mấy trăm năm nữa, chốc lát cảnh tượng biến đổi, nếu lại có kẻ buông lời than thở như ta, lẽ nào lại không có vài người như Trí Nhu xây dựng lại?”. Đến thời Lê Sơ, tháp không còn nữa và đến nay cũng chỉ là ký ức trong bi ký của Trương Hán Siêu. Người viết bài này cũng ao ước được ngắm một Linh Tế được trùng tu ngày nào trên Dục Thúy, bóng tháp in dòng sông xanh, bốn tầng soi sáng mười phương thiện lành. Cảm thay cái thú người xưa lúc chiều tà buông chiếc thuyền con lênh đênh dưới núi, nâng mái bồng nhìn quanh ngạo nghễ, gõ mạn thuyền ca khúc cổ nhạc, thử sợi dây câu mà tìm thanh cao của người xưa. Tôi học theo cụ Trương rằng, cảnh này, tình này chỉ có ta với non sông này biết nhau mà thôi! Lẽ vì thế bài Dục Thúy Sơn đã chạm đến lòng người, ghim khắc vào cảnh, tạo nguồn cảm hứng cho hậu thế “sinh sự cùng chữ” trên đá núi xanh. Nguyên tác: “Sơn sắc thượng y y/ Du nhân hồ bất quy?/ Trung lưu quang tháp ảnh/ Thượng giới khải nham phi/ Phù thế như kim biệt/ Nhàn danh ngộ tạc phi/ Ngũ hồ thiên địa khoát/ Hảo phỏng cựu ngư ky”. Dịch thơ: “Sắc núi còn xanh ngắt/ Lâu rồi, người vẫn đi!/ Lòng sông in bóng tháp/ Tầng thẳm cửa thôi che/ Từ cách xa đời tục/ Mới hay điều thị phi/ Năm hồ trời đất rộng/ Bến cũ khi nào về?”4 Trương Hán Siêu cho cái tạo hóa núi vẫn xanh mà người đi không về, cảnh vẫn đó mà người còn đâu. Tháp Linh Tế sáng ngời tỏa bóng xuống lòng sông, gợi lời thiên giới mở cánh cửa tiên mà xuống chơi, vọng cảnh. Dục Thúy Sơn là cõi tiên nơi thế tục, có cách biệt với cuộc đời chìm nổi chốn này không. Trương Hán Siêu biết trước cái hữu hạn của kiếp người, biết rằng cái danh hờ chỉ tồn tại như ánh chớp. Trời đất rộng mênh mông, thôi hãy buông câu bên tảng đá để chiêu tuyết cổ kim. Tôi nhìn lên Dục Thúy, từng dải mây trắng tụ vần, nghe tiếng lá theo gió hổn hển đọc những vần thơ khắc trên đá núi.

*

Một sớm thu khác, tôi cùng các bạn văn chương ba miền ghé Nghênh Phong Các, lầu đón gió trên đỉnh núi Dục Thúy, tương truyền là nơi Trương Hán Siêu thường uống trà hóng gió. Rồi chúng tôi lại ghé thăm cụ Nguyễn Ngọc Điến, chừng như câu chuyện với cụ cứ dài ra mãi. Mỗi lần đến mỗi lần mới, cụ mời trà và khi nhắc đến trà phải kể đến sơn kim cúc. Xưa trên núi có giống cúc dại nở hoa vàng nhỏ, mùi thơm hăng hắc, được xem là vị thuốc quý được Trương Hán Siêu đặt tên “sơn kim cúc”. Cúc mọc tự nhiên, hút sương trời khí núi mà sống nên rất đậm đà, tinh khiết vì thế trà này có tác dụng giúp tâm hồn thư thái, sảng khoái, trí óc minh mẫn, mắt sáng. Để có một ấm trà sơn kim cúc thơm ngon trước hết phải chọn hoa cúc là những nụ ở gần gốc, cành lá to, dày. Cúc hái về phơi khô hoặc sấy khô rồi bỏ vào lọ cất dùng dần. Nước pha trà phải là nước tinh khiết chảy trên núi xuống hay nước mưa tự nhiên. Tương truyền, xưa vua Tự Đức nghe tiếng sơn kim cúc với lòng hiếu đễ đã dâng lên mẹ uống trị khỏi bệnh mắt, thành ra đó cũng là trà tiến vua. Ngày nay, khắp các vùng núi đá Ninh Bình đều có loài sơn kim cúc và là món quà không thể thiếu mỗi dịp ghé Ninh Bình. Ấy vậy mà khi chúng tôi đặt chân lên Dục Thúy, không thấy bóng dáng một khóm sơn kim cúc nào giữa rậm rịt cây lá. Chợt thèm một lần thưởng trà nơi Nghênh Phong Các mà nghe sông nước rì rầm kể lại tích xưa.

Trương Hán Siêu bị bệnh và mất sau cuộc chinh chiến biên thùy phía Nam nghìn dặm xa xôi vào năm 1354. Ông được nhân dân Ninh Bình tôn kính, lập đền thờ, xây lăng mộ ở làng Phúc Thành quê ông, tiếc là thời gian, chiến tranh, biến động thời cuộc nay không còn nữa. Cảnh cũ chốn xưa giờ chìm khuất dưới những khu đô thị, chỉ còn lại những bia đá, thần vị vô tình được tìm thấy lúc người dân làm nhà, làm móng. Theo sử sách, vào thời Nguyễn khu lăng mộ và đền Văn Chương thờ Trương Hán Siêu vẫn còn, được quan sở tại chăm lo, tu sửa. Năm 2000, thị xã Ninh Bình xây dựng lại đền thờ “Trương Thăng Phủ từ” ở dưới chân núi Dục Thúy.

Đại học sĩ thời Trần Hồ Tông Thốc mấy chục năm sau (khoảng 1383) khi viết bài minh Thúy Sơn Báo Ân điện do Lưu Huy Thuật người làng Yên Đăng bỏ tiền của ra xây ở núi Hồi Hạc gần đó có ca ngợi núi Dục Thúy một mình cao chót vót bên bờ sông dài, khí thế và hình dáng hùng tráng. Lại nói núi Hồi Hạc hay còn gọi là Động Sơn trước ở phía tây nam Dục Thúy, khoảng cách chừng 100m nay đã bị phá hủy, chỉ còn là bình địa với dấu tích vài phiến đá nhỏ. Núi được ví như hạc trời đậu bên bờ sông, “Hạc trời đùa giỡn Nam Giao cõi ngoài” (Trịnh Sâm). Các đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị đều có ban sắc phong, Phan Huy Chú cũng đề cập nhiều trong các trước tác của mình. Tiếc là ngày nay Hồi Hạc không còn, điện Báo Ân cũng biến mất, chỉ còn Dục Thúy lẻ loi làm chứng nhân giữa nắng mưa vô thường như lời Hồ Tông Thốc: “Khí tiết Non Nước/ Có chùa ngay bên/ Sông dài bên dưới/ Cảnh đẹp đông nam”. Về sau, vua Minh Mạng trong một lần tuần du ra Bắc đã ghé thăm núi lại đặt là Hộ Thành Sơn, đồng thời cho xây thành Ninh Bình ở phía tây nam của núi. Còn người dân Ninh Bình thấy núi sông tạo thành phong cảnh đẹp, có non có nước nên gọi là hòn Non Nước.

Sau vần khai bút của Trương Hán Siêu, các văn nhân thi sĩ cùng thời, các triều đại sau đều đến làm thơ, lưu bút trên vách núi ca ngợi cảnh đẹp nơi đây như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Thiệu Trị, Tự Đức. Còn nữa, núi Thúy cũng khắc dấu những vần thơ của Phạm Sư Mạnh, Ninh Tốn, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Phạm Văn Nghị... Dục Thúy Sơn là núi thơ hiếm có của Việt Nam tự cổ chí kim, được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt vào ngày 31/12/2019. Trên vách núi nay còn hơn 40 bài thơ chữ Hán của những tao nhân, mặc khách khắc trên đá dãi dầu cùng nắng mưa, năm tháng. Dục Thúy Sơn mệnh danh là “thơ phú anh hoa đầy vách gấm”. Nguyễn Trãi để lại đôi dòng trong bài Dục Thúy Sơn khi dừng chân chốn này nhớ Trương Hán Siêu trên tấm bia đá lốm đốm rêu phong: “Non bồng nơi cõi tục/ Mặt nước nổi đài sen/ Bóng tháp ngời trâm ngọc/ Tóc mây gợn ánh huyền”5. Ức Trai gọi đây là núi tiên (tiên san), là cảnh tiên nơi cõi trần với bóng tháp như cài trâm ngọc vào dòng nước xanh. Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến chơi núi lúc hoàng hôn cũng cảm khái mà rằng: “Núi xanh từ vạn thuở/ Dục Thúy, tên năm nào/ Mé nước, chùa soi bóng/ Đầu non, thành đứng cao”6. Trong tiếng chim chiều thánh thót, cô liêu, tà dương gợi lên thi nhân ý tình hoài cổ về người xưa, về dấu tích danh nhân tiền bối Thăng Phủ Trương Hán Siêu.

Dục Thúy được vinh tụng là núi thơ, chữ như châu ngọc, chí ngút trời xanh của vua quan, tao nhân mặc khách cả nghìn năm góp lại. Thi ca đã tôn vinh ngọn núi và núi bảo tồn thi ca trong hình hài gần gũi với thế nhân. Nhưng cái sự đời trớ trêu, có kẻ sính danh tự cho bằng Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông… cũng “đua đòi” làm thơ đục đá để lưu truyền muôn đời. Một trong số đó là quan Tuần phủ Ninh Bình Từ Đạm. Từ Đạm, hiệu Cúc Nhân (1862 - 1936), quê xã Khê Hồi, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông làm quan dưới thời nhà Nguyễn bấy giờ đã suy yếu trong tình trạng quốc gia nửa phong kiến nửa thuộc địa. Từ Đạm đã làm bài thơ “Trăng gió vui cùng hắn” và cho khắc lên đá Dục Thúy vào năm 1919. Đọc thơ Từ Đạm nhiều người giật mình kinh hãi: “Trăng gió vui cùng hắn/ Lầm than bận kệ ai/ Ham chơi non với nước/ Có phúc được ngồi dai”7. Ngang nhiên hơn, Từ Đạm cho sửa một bậc đá tự nhiên làm ghế ngồi, khắc lõm dấu hai bàn chân của y vào đá núi, bên trên khắc bốn chữ “Cúc Nhân đoàn tọa” ý chỉ ông ta, coi như sánh ngang với các bậc tiên hiền. Nhân chuyện chướng mắt này, một thi nhân đã khắc lên đá bài thơ của mình ngay bên cạnh tấm bia thơ của Từ Đạm nhưng ở vị trí cao hơn ý mỉa mai rằng: “Năm ngoái năm kia đục mấy vần/ Năm nay quan lại đục hai chân/ Khen thay đá cũng bền gan thật/ Đứng mãi cho quan đục mấy lần”. Từ đục “mấy vần” đến “đục hai chân” quả là chuyện lạ không ai làm được ngoại trừ ông quan sính thơ, háo danh cậy có chút quyền đua đòi tạc ghế, khắc thơ xỏ chân trên đá núi để mặt dày cùng tuế nguyệt. Từ Đạm cay lắm nhưng chẳng biết ai là người xỏ mình vì không có dòng lạc khoản. Sau này thi sĩ Tản Đà đăng trên An Nam tạp chí số 1 ngày 1/7/1926 do chính mình làm chủ bút và được đặt tên là Nhắn Từ Đạm, có lẽ vì thế nhiều người cho rằng bài thơ này là của Tản Đà. Gần đây, theo nhà thơ Phạm Trọng Thanh (báo Văn Nghệ số 51/2022), bài thơ châm biếm Từ Đạm nói trên là của nhà thơ Phạm Ứng Thuần (1885 - 1955) một người bạn của Tản Đà, quê làng Vị Xuyên (phố Hàng Cót, thành phố Nam Định). Thơ văn chữ Hán, chữ Nôm của Phạm Ứng Thuần thường nhằm đả kích, chế giễu bọn bán nước, quan lại tham nhũng, bạo tàn, những hạng người kệch cỡm, bọn lưu manh thời ấy. Ông cùng Tú Xương đả kích biết bao thói hư tật xấu của xã hội buổi giao thời.

*

Đứng trên núi, phóng tầm mắt ra xa có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh núi Cánh Diều cách đó không xa. Dưới chân núi phía bờ sông Đáy còn có chùa Non Nước nép mình thanh tịnh, yên ả dưới những tán cổ thụ. Ngôi chùa được xây dựng từ thời vua Lý Nhân Tông. Năm 2006, chùa được tu bổ khang trang. Chúng tôi ghé thăm chốn thanh tịnh, cây trái sum suê mùa bưởi chín mọng vườn thiền. Bà sãi cho biết núi Non Nước từng là trọng điểm đánh phá ác liệt thời chống Pháp và chống Mỹ nhưng ơn Trời, Phật, chùa Non Nước chưa từng trúng một mảnh bom nào. Nơi đây còn là một di tích lịch sử cách mạng nổi tiếng của Ninh Bình khi năm 1929, người anh hùng Lương Văn Tụy đã nhận nhiệm vụ cắm lá cờ búa liềm để khích động tinh thần đấu tranh của quần chúng. Anh hùng Lương Văn Tụy là con trai của cụ Lương Văn Thăng (1865 - 1940), nhà cách mạng, nhà văn hóa mà tôi rất kính ngưỡng nhất là khi đọc thơ cụ đề dưới bức tranh tự họa: “Cũng mày cũng mặt cũng người/ Cũng râu cũng tóc cũng đời người ta/ Có mồm sao chẳng nói ra/ Có chân sao chẳng bước ra khỏi vòng/ Hỏi mình mình có biết không/ Biết không, không biết, mình không mình mình”. Cái chí vì dân vì nước mà dấn thân trăm năm trước cụ đã trao truyền. Con mất vì nước nhà, vì sự nghiệp cách mạng cụ tiếp tục cống hiến, góp phần không nhỏ vào việc tổ chức lực lượng cách mạng Ninh Bình thời kỳ tiền Cách mạng Tháng Tám. Địa danh này còn gắn với anh hùng Giáp Văn Khương, người sau này là Đô đốc, Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam, đã từng chiến đấu đến cùng và nhảy từ đỉnh núi xuống dòng sông Đáy chứ quyết không chịu sa vào tay giặc trong chiến dịch Quang Trung 1951. Trận đánh ác liệt này, trên núi dốc, dưới sông sâu, đồng chí Khương cùng đồng đội đánh địch từ tối đến sáng, đánh xuống hầm ngầm, đánh lô cốt này sang lô cốt khác. 3 lần hết đạn, 2 lần bị thương nặng, Giáp Văn Khương diệt được 6 lô cốt, phá nhà chỉ huy của địch… Trên núi Thúy, vẫn còn dăm lô cốt kiên cố được Pháp xây dựng nhằm kiểm soát toàn bộ tuyến giao thông đường bộ và đường thủy Nam - Bắc. Những bê tông đen sì, xấu xí này làm tôi chạnh lòng những vết thương lịch sử, đen ố đạn bom sao nỡ găm lên núi biếc.

Nhắc Dục Thúy Sơn mà không nhắc sông Vân Sàng e là thiếu sót. Núi Thúy, sông Vân là biểu tượng của non nước Ninh Bình. Sông Vân, tên đầy đủ là Vân Sàng, ngày nay ta quen gọi tắt là sông Vân. Một dòng sông nhỏ, ngắn chỉ tầm 5km, nước trong xanh, thơ mộng chảy giữa lòng thành phố Ninh Bình. Sông Vân phía bắc nối với sông Đáy, tạo thành ngã ba Non Nước ngay tại chân núi Dục Thúy. Về phía nam, sông Vân nối với sông Vạc và sông Thiện Dưỡng tại Yên Kiều (Hoa Lư) tạo thành ngã ba Yên Kiều. Như vậy, hai hướng nam bắc của sông đều tạo thành những ngã ba chan hòa, nhiều điểm tụ cư, sinh hoạt của người dân. Sông Vân cũng có các chi lưu khác là sông Sào Khê và sông Chanh. Đi dọc bờ phía Tây có chợ Rồng sầm uất bán buôn của thành phố Ninh Bình. Xưa còn có phố cổ Vân Sàng. Các cầu như Âu Thuyền, Chà Là, Lim, Vòm… và còn có cả một cây cầu gỗ có tên là Phúc Đằng do tuần phủ Ninh Bình tự bỏ tiền ra làm cho dân đi nhưng nay không còn. Sông Vân là một dòng sông có giá trị lịch sử, nơi gắn với các chiến công của Đại Cồ Việt trong kháng chiến chống quân nhà Tống dưới thời vua Lê Đại Hành. Tại ngã ba sông có địa danh Hải Đài là nơi Lê Hoàn duyệt thủy quân trước khi ra trận phá giặc Tống năm 981. Sau khi khoác áo long cổn, lên ngôi thiên tử, Lê Hoàn thống lĩnh đại quân theo sông Đáy về cửa Đại An rồi ra Bắc đánh giặc. Thái hậu Dương Vân Nga đứng trên núi Hồi Hạc lưu luyến tiễn biệt đoàn quân. Cũng chính tại Hải Đài, Lê Hoàn chiến thắng trở về. Trăm họ nô nức nghênh đón, hò reo vang dậy. Tiếng kèn, tiếng nhạc đại lễ cử lên. Dương Thái hậu bước lên thuyền rồng cùng Lê Hoàn êm ả đi trên dòng sông, họ cùng nhau vẫy chào thần dân, tướng sĩ. Tương truyền, giữa lúc ấy trời đang nắng to, bỗng có đám mây ngũ sắc bay theo thuyền rồng người người đều cho là điềm trời linh ứng, mây trời che chở cho thiên tử. Thuyền đi đến đâu, mây theo đến đó. Trong đám mây kỳ lạ ấy, người ta còn thấy đôi rồng đang bay quyện như ôm ấp, quấn quýt lấy nhau. Kể từ đó, dân gian đặt tên cho con sông từ cửa Hải Đài dưới chân núi Dục Thúy đến Yên Kiều là Vân Sàng giang nghĩa là dòng sông giường mây, nơi chứng kiến cuộc hạnh ngộ, giao loan của vua Lê và Dương Thái hậu. Tới đoạn này, tôi để ý thấy có một số tài liệu lại chép rất thô kệch như miêu tả Lê Hoàn đánh thắng giặc Tống trở về Hoa Lư, Thái hậu Dương Vân Nga đã kê giường bên bờ sông đón và giao hoan với nhà vua, lập tức có gió thổi mây bay đến trên trời soi xuống dòng sông. Thật ra, đây chỉ là ngụ ý của dân gian, cảnh mây che thuyền và đôi rồng quyện hòa như nằm trên giường mây rất thơ, rất tình và là điềm lành của thiên tượng, phù hợp với mệnh trời việc Lê Hoàn lên ngôi vua chứ không thô thiển kê giường, giao hoan như sự diễn giải tùy tiện nói trên. Ở đây chúng tôi còn có kiến giải thêm về tên Vân Nga của bà. Theo tác giả Nguyễn Văn Trò, bà có cha quê ở làng Vân Long (Vân Lung, Gia Vân), có nghĩa là rồng mây. Còn người mẹ quê ở làng Nga My (nay là Mỹ Hạ, Gia Thủy) có nghĩa là mày ngài. Vì thế quyết định đặt tên con là Vân Nga, nghĩa là người con gái yểu điệu như mây, vừa gắn với tên làng vừa thể hiện ước nguyện của hai vợ chồng. Và bây giờ chúng ta có dòng sông Vân Sàng, có lẽ có sự tương liên với Thái hậu Dương Vân Nga chăng? Tuy nhiên, việc họ Dương của Dương Vân Nga quyết định về quê đổi thành họ Giang nhằm không công nhận bà thuộc họ tộc nữa cũng khiến cho người đời dị nghị. Sự việc bà khoác long bào, lấy ngôi con để nhường cho Lê Hoàn cũng khiến sử sách đặt nhiều dấu chấm hỏi. Dân gian lại truyền tụng câu tương truyền do một đạo sĩ cho sấm khi sinh bà: “Nín đi, nào nín đi thôi/ Một vai gánh vác, một đôi sơn hà”. Phận đàn bà trước cơ đồ đất nước, chuyện chính trị bên tấm mành loan thật khó tỏ bày. Chính hay bất chính cũng do miệng lưỡi thế gian, ấy vậy nhưng sự tôn thờ bà ở một số địa phương xưa và nay vẫn còn đó cho chúng ta cảm về hành động lịch sử. Nhìn về đại cục, đất nước bình an trước nạn can qua của phương Bắc, ấy cũng là công lao vậy. Bà đã có hành động chính trị sáng suốt của một người có khối óc lớn, thức thời, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê, chấm dứt cuộc xào xáo thù trong giặc ngoài và nhất là góp phần vào chiến thắng quyết định trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược. Ngày nay ở hạ lưu, hai bên bờ sông là hai con đường mang tên Lê Đại Hành và Dương Vân Nga, gần đó có đền Đồng Bến là nơi ghi dấu những truyền thuyết về thiên tình sử này. Hiện nay, bài vị của bà có trong nhiều điện thờ và hàng loạt đường phố, trường học mang tên Dương Vân Nga. Sử thi “Hoàn vương ca tích” được tìm thấy tại tỉnh Hà Nam ca ngợi vẻ đẹp của bà: “Suối trong tựa ánh nguyệt tràn/ Mây ngồi xổm, cá lượn đàn lên mây”. Vẻ đẹp và công tích của bà được nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật phản ánh, ca tụng, phần nào minh oan cho Dương Thái hậu giữa sóng gió chính trường và lịch sử.

Ngẫm lại chuyện cũ, như Dương Thái hậu, như công chúa Phật Kim nhan sắc trôi theo nước chảy độ thu về, chìm khuất trong lịch sử xa mờ mấy ai tỏ biết. Ai tô vẽ cho đêm thu bên Dục Thúy, ai điểm sức cho bầu trời thau vàng nhuộm giang san. Ánh sáng vô vàn đậu trên núi ngọc bừng đêm trăng như hào quang tháp Linh Tế ngày nào. Tôi như đứng trước bức rèm điểm xuyết bằng lông chim trả, chỉ thấy màu xanh sáng ngời bừng lên đêm tháng Tám giữa thành phố Ninh Bình. Đôi lúc tự hỏi, mùa thu đẹp và xao xuyến nhưng có ai phải chịu đựng mùa thu vì nỗi buồn bã, vì sương thu lạnh giá ủ lẻ loi. Khoảnh khắc cảnh đẹp trôi qua nhanh và tuổi trẻ cũng lướt đi như ánh trăng xế dần khuất sau màn mây.

*

Đêm trăng giã biệt Ninh Bình, đi trong gió như nghe cánh trả bay vù xa thẳm. Tiếng chuông khua động giấc hồ trong nhịp xe rời bến… Thôi lấy cái chí của thi nhân không đợi đuổi bay cùng phỉ thúy, vạn trùng xa cách vạn trùng gần, yêu đất cố đô mà mang về cố đô bằng mực viết sổ tay cho đậm dòng xanh biếc. Nhắm mắt lại, Dục Thúy Sơn mây trắng nước xanh. Non cao cao, núi cao cao, vấn vương còn đó, ngẩn ngơ tỏ lòng.

L.V.T.G
(TCSH438/08-2025)

-------------------
1 Nguyên văn: Ngọc lâu sào phí thúy, Kim điện tỏa uyên ương.
2 Nguyên văn: Giang thượng tiểu đường sào phí thúy/ Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân.
3 Bản dịch của Đông Châu, Nam Phong tạp chí, tập XIV số 8, tháng 6/1924. Nguyên văn: Đại giang hề cổn cổn/ Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận/ Nhân nhân hề văn danh/ Phỉ nhân hề câu dẫn.
4 Bản dịch của nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh.
5 Huy Cận dịch, nguyên văn: Liên hoa phù thủy thượng, Tiên cảnh trụy nhân gian. Tháp ảnh, trâm thanh ngọc, Ba quang kính thúy hoàn.
6 Trần Thị Băng Thanh dịch, nguyên văn: Vạn cổ thanh sơn tại/ Hà niên Dục Thúy danh./ Cô thành thiên nhận lạc/ Nhất tự bán giang bình.
7 Nguyên văn: Phong nguyệt nhĩ câu thích/ Đồ thán thùy khổng ai/ Sở lạc tại sơn thủy/ Tọa cửu thôi phúc giai.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
  • Nguyệt Biều, ngôi làng cổ nép mình bên dòng Hương giang, tựa như một nét vẽ phác thảo của Huế - thành phố vườn xanh ngát bóng cây và dịu dàng sông nước.

  •                     Bút ký

  •                     Bút ký

  • Đi dọc những triền đê mùa xuân thấy ngọt ngào hương cỏ mật. Chợt gặp chiều phiêu linh trên dòng sông Sò. Con sông vươn tay một cái là chạm ngay vào biển. Khói ráng lênh đênh đuổi nhau trên cửa Hà Lạn.

  • Buổi sáng sớm cuối năm, tôi chạy xe qua đường Chi Lăng - phố cổ Gia Hội và bất chợt gặp đôi triêng gióng của một mệ già đang đi ngược đường. Tôi định dừng lại bấm một chiếc ảnh, nhưng đường đang đông người nên thôi.

  • Nhiều người đi xa lâu ngày khi nhớ về thành phố thường thắc tha thắc thỏm, phố bây chừ còn những lối xưa, người bây chừ còn giữ những nếp xưa, có còn những nét mềm mại hiền ngoan đã từng níu biết bao ánh nhìn mỗi khi có một ai phải dứt áo xa quê.

  • Sông Hương chảy xuyên suốt vào lòng đô thị Huế. Những phù sa, trầm trích sông để lại, tạo nên một Cố đô đầy kiêu sa, hiền từ, thư thả giữa trời mây.

  • VĨNH QUYỀN

               Bút ký

  • LỮ MAI
                   Bút ký

    Như lời hẹn hò từ trước với bà con - “Nhớ lên bản mùa táo mèo nở rộ” - chúng tôi rủ nhau đi về hướng núi.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                                Tùy bút

    Cái không khí Tết đến, xuân về đã kề cận thật rồi, chợt nghe ai đó đọc câu thơ cũ: “Một chén xuân đưa vạn dặm tình/ Cỏ thơm đứt ruột nát lòng oanh.

  • NGUYỄN HỮU TẤN
                         Bút ký

    Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
                                        (Hò giã gạo Huế)

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA

                           Tùy bút

  • HƯƠNG GIANG

               Ghi chép

  • TRẦN BẠCH DIỆP

              Ghi chép

  • LÊ HIẾU ÁNH

                     Ký

  • VÕ MẠNH LẬP
              Ghi chép

    Sau trận Ca-mác, đồn Lai Hà được dựng lên. Làng mạc san sát bây giờ dân bị gom lại, nhà cửa, bờ tre, cây cối bị san bằng không còn một cành cây, ngọn cỏ.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                            Bút ký

    Nói đến thú chơi hoa cảnh, người ta thường nhớ ngay tới những vườn đào Nhật Tân, những vườn lan Đà Lạt, chim cảnh trăm giống Sài Gòn, cá vàng ngũ sắc Hải Phòng. Ít ai nghĩ rằng Huế cũng là đất chơi hoa. Mặc dù cái tên Cố đô Huế đã rất quen, rất thân thuộc với mỗi người.

  • NGUYỄN HỮU TẤN

    Nước non còn đó muôn đời
    Ai chia được nước, ai dời được non

                            ("Lý tình tang" Huế)

  • NGUYỄN KINH BẮC

    "...Mình biết, mỗi người đều có một Huế riêng cho mình. Riêng với mình, Huế bắt đầu là ở câu thơ này:
    "Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng
    Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai".

  • NGUYỄN NGỌC LỢI

    Cả tuần nay mới thực sự đông. Tinh mơ tốc chăn, mở cổng ra đường, cái rét buôn buốt phả vào nhưng nhức tê tê nơi da mặt.