TRẦN BĂNG KHUÊ
1.
Hoàn cảnh này, ngay tại nơi này. Có một lí do nào đó khiến tôi nghiễm nhiên cho rằng, chúng đã thực sự biến mất trong những ánh nhìn mà tôi từng cố tình lưu nhớ từ vài tầng kí ức được xếp lớp rất kĩ càng.
Minh họa: Nhím
Tôi cất giấu tất thảy những gì liên quan đến chúng; dù chỉ là một lá thư viết tay đã ố vàng màu mực tím hay một con hạc đỏ hồng mang vác nặng trĩu niềm tin và hi vọng như kiểu trẻ trâu ngây thơ vẫn thường mơ mộng về một thiên tình sử.
Nhiều lần, tôi muốn cất lên tiếng gọi này, để nó vang động hẳn trong tâm thức tôi vĩnh viễn. “Những mùa vàng. Những mùa vàng. Hỡi những mùa vàng xanh xao trong bầu trời hoang tưởng”. Mắt tôi dường như đang dần mờ nhòe, hoặc có thể đã bị đánh lừa bởi những ảo giác về thứ óng ánh lấp lánh sắc vàng trải đều đặn dưới chân. Những tầng lá mục khoe cái đẹp cuối cùng của nó khi không còn xanh mơn mởn nữa. Tôi mãi mê đuổi theo việc niệm suy về sự tồn tại, về sự sống và cái chết của cây cỏ, hoa lá, phút chốc không còn để ý đến cơn váng vất trên đầu mình sáng sớm hôm nay. Một vệt nắng nhỏ xíu, xuyên chiếu vào mắt tôi, luồn sâu trong những miền tối. Thăm thẳm gió. Thăm thẳm vực. Thăm thẳm biển sâu. Thăm thẳm tôi dạt trôi vĩnh viễn.
Vẫn chưa đi đến cuối con đường, men lên đồi cao. Thành phố sầm uất bị tôi bỏ rơi lại phía sau lưng. Thành phố cũng lưng lửng buồn như một cái lòng chảo sâu hóm miền thung lũng. Tôi lại tiếp tục dợm bước trên những thảm lá mục, tiếp tục dạt trôi theo chiều suy tưởng đang leo dốc. Tôi không thể nào thoát khỏi những ám ảnh của mùa vàng. Chúng hiển hiện ở ngay thời điểm mà khả thể tôi xuất hiện. Hãy nhìn xem, đừng mở mắt, nhưng hãy cố nhìn xem bằng tâm thức tỉnh táo sắc bén. Mùa vàng ở đó. Những mùa vàng rải thảm. Từ chân trời đến mặt đất.
2.
Những mùa vàng bị chôn sâu dưới thảm lá mục ruỗng.
Và hẳn nhiên, chúng cũng đã bắt đầu chơm chớm chuyển đổi như một dấu hiệu quen thuộc đến nỗi tôi có thể dễ dàng nhận thấy ngay lập tức. Dưới gót chân, dưới những gốc cây bị người ta quết vôi và đánh dấu. Những đám mùn mục ruỗng từ thân, cành, hoặc hàng loạt lá chết. Như người. Xác lá. Xác người. Xác của đám dế đồng vừa mới nhảy lên khỏi bờ ruộng, lạc vào thành phố mùa vàng, chực chờ được nuốt trọn ánh trăng tan trên mặt nước. Lấp lánh. Lấp lánh. Huyễn hoặc cõi mộng mê lạc lõng.
Chỉ là chờ cái chết. Tất thảy chúng ta đều phải đợi cái chết. Đợi trong nỗi hân hoan. Đợi trong nỗi cô đơn. Những mùa vàng thường khiến chúng ta lạc lối vô thức. Tôi cũng đã từng đi lạc giữa những mùa vàng đầy mộng ảo ở con đường đến trường nào đó. Bây giờ, tôi lại đi lạc giữa thế gian. Đấy, nơi đây, chính nơi mà người ta rủ rê nhau đắp xây cái chết bằng những mùa vàng rệu rã, mệt mỏi. Giả thử, không ai làm gì để chứng tỏ sự sống, thì cái chết liệu có buông tha và biến mất vĩnh viễn khỏi thế giới đầy huyễn hoặc này?
Chẳng một ai rảnh rỗi để mô tả cho tôi về chúng nữa, khi tôi quyết định bỏ bê và hờ hững đạp những vết giày lên lưng nó, mặt nó; cố tình tạo ra thứ âm thanh người ta đặt tên chính xác bằng hai từ: “tan vỡ” đến quen thuộc, không hề thấy nhàm chán mỗi ngày, mỗi mùa. Hệt như thiên tình sử của tôi vậy. Chúng chết rồi. Cái chết của chúng lảo đảo bật dậy từ bóng tối, rời khỏi bóng tối, chẹn đường tôi, không để tôi bước qua ranh giới nhạt nhòa phát lộ những điều huyễn hoặc ảo tưởng. Cái chết của chúng những mong điều gì đó bất ngờ như việc người ta vẫn nheo nhéo về sự hồi sinh yếu ớt. Vậy mà, sáng nay, tôi đã thấy chúng sống lại. Hồi sinh, dưới ánh nắng mặt trời chói gắt. Và lặng lẽ nằm dưới những gốc cây mùa thu, nằm dưới chân tôi, nằm dưới ánh mắt hờ hững của tôi. Đợi chờ rêu phong.
3.
Tôi chẳng còn nhớ gì về những mùa vàng cũ kĩ. Kể cả việc, tìm kiếm một chút vết tích thôi, cũng thật mong manh. Thiên tình sử của tôi đã chết. Những cánh hạc đỏ hồng đã bị tôi đốt hết. Những dòng thư viết tay lem nhem màu mực tím cũng đã mờ nhòe hoen ố, như những mùa vàng này vậy. Bây giờ, tôi chỉ mơ những màu sắc non tơ hay rạng rỡ tươi thắm, hoặc u ám xám đen trên một con phố Két, trên một cánh đồng Két, kể cả trong một cửa hiệu quần áo cũng mang tên Két ở bên kia đường. Họ vừa gắn bảng giá sale tất thảy những gì trong cửa hiệu hiện có. Vậy thì, tôi có nên mộng mơ thêm nữa về những mùa vàng cũ kĩ trong quá khứ hay đưa họng súng đen lên bóp cò và thổi khói bay đi như một tay cao bồi chuyên nghiệp miền viễn tây cho vừa lòng tôi lúc này?
Nhưng, hẳn nhiên không phải thế đâu. Tôi chẳng cần tình yêu hoặc một vài niềm vui hời hợt an ủi. Hiện thời của tôi bị vùi lấp trong một đống phế thải dồn dập từ rất lâu rồi. Càng lúc tôi càng thấy nó cao ngút tầm mắt mình chẳng thể nào kiểm soát nổi. Tôi chẳng cần niềm vui. Hẳn là niềm vui chẳng phải thứ gì đó cao sang, rạng rỡ lắm đâu. Cảm xúc chỉ mang tính nhất thời. Chúng sẽ lụi tàn sớm thôi và sau đó vẫn là cái chết. Không ai/không gì có thể tránh khỏi cái chết. Rõ ràng thế. Ấy vậy, nhiều kẻ vẫn chẳng chấp nhận cái chết. Nhiều kẻ mơ về sự bất tử. Bất tử nằm trong đáy địa ngục. Nếu dám đánh đổi tất thảy mọi thứ sẽ được bất tử. Đơn giản lắm.
Những cái chết luôn luôn hiện hữu dưới mỗi tầng lá xuyên thủng bầu trời. Những cái chết rong chơi trên mặt nước mỗi đêm sâu chìm ngập trong bóng tối. Tôi biết, dù rằng có khi chúng đang xanh tốt ngời ngời sức sống đó, nhưng rồi sẽ đến lúc nó rơi rớt dưới từng gót chân vô tình. Tôi mặc định rằng mình đã ngắt chùm hoa sữa non thơm từ trên cành cây xuống vào cái đêm hôm ấy. Và, đó là lúc cái chết đến. Cái chết của một bông hoa sữa non thơm. Cái chết của cành, cây, gốc rễ. Những cái chết không thể tách lìa khỏi sự tồn vong bất định của thế giới này.
Cho đến bây giờ, thi thoảng tôi vẫn thấy nó sống động, buông tuồng sự quyến rũ ra bên ngoài lớp áo váy màu trắng, kiểu như khoe khoang khiết tính hiếm hoi thành thật. Chỉ khác, đêm qua, sau cơn bão số mười mấy, tôi đã nghe hàng loạt tiếng súng đạn lên nòng. Có thể đó chỉ là sự tưởng tượng, mà tôi ngỡ như là thật. Tôi đã nằm mơ về một cuộc rượt đuổi kì quặc. Thiên tình sử của tôi đã lắp đạn lên nòng và đuổi bắt tôi trên những cung đường lạo xạo thứ lá mục ruỗng sắp chết.
4.
Sáng nay, trời quang, mây tạnh. Tôi vẫn theo thói quen, rời nhà để đi bộ, men theo con đường lên đồi, đạp chân lên những tầng lá vàng mục. Tôi cầm theo một con hạc đỏ vừa mới mua ở một nghệ nhân gấp giấy dưới phố. Tôi chỉ lấy mỗi con hạc đỏ, và vân vê nó suốt đoạn đường lên đồi. Con hạc thật đẹp. Những thiên tình sử bi lụy đều sống hoặc chết bởi vẻ đẹp kì lạ ẩn giấu này. Nắng trải đều. Mùa vàng say lảo đảo dưới chân tôi. Bất giác, tôi nghe đâu đó, trong không gian tĩnh mịch chỉ có hoa cỏ và chim ca, vang lên tiếng gõ đều đặn của chiếc búa sắt đập vào khoảng không. Chúng hồn nhiên vỗ lên tai tôi từng nhịp một, nhức buốt. Chúng hệt như một bản nhạc vừa lạnh lùng vừa réo rắt, đổi cung bậc liên tục, hòng kéo tôi trở về thực tại, ngắm nghía, nâng niu thiên tình sử đã bị tôi chôn vùi dưới những tầng lá mục ruỗng.
Những buổi sáng khác, thức giấc mệt nhoài trong căn phòng bê tông chật chội, khiến tôi luôn luôn dưỡng nuôi ý nghĩ về vài cuộc chạy trốn. Ngay cả khi tôi còn nằm ườn và trùm chăn kín mít ở trên giường. Dường như, có giọng nói nào đó vẫn đang thúc giục tôi, phải chạy trốn thôi. Tôi phải chạy trốn khỏi nơi đã sinh ra thiên tình sử ấy. Tôi biết, những mùa vàng rồi sẽ bắt đầu loang lổ dần dần trên từng cung đường, từng cánh cổng, từng mép vỉa hè, từng dòng sông, từng con đê làng, từng ao bèo sen súng úa lá phơi giữa cánh đồng của tôi, trong quá khứ xa xôi. Phải chạy trốn thôi. Tất cả họ, đấy, những kẻ lạ và quen, hoặc gần gũi như một thiên tình sử trong kí ức ướt nhòe màu mực tím, họ sẽ đuổi theo tôi. Họ đi rồi lại dừng, dừng rồi tiếp tục đuổi theo sau lưng tôi không biết mệt mỏi.
Sáng nay, tôi không lên đồi, bỏ lại thành phố sau lưng để ngắm nghía những mùa vàng với dòng tâm tưởng hoài cổ. Tôi nằm im trong một bức tường, không đọc sách, không lướt web, không gì cả, chỉ nghe mỗi đường ray đều đặn lướt qua. Tôi tưởng tượng đến một con phố tối nào đó ở London. Nơi sự sống và chết lẫn lộn, nhưng rõ rệt, không mờ nhòe như sương mù. Tiếng còi tàu lúc xa lúc gần. Chúng đang tiếp tục một cuộc phiêu lưu giữa dòng thời gian. Tôi vẫn còn nằm ườn trên giường và tưởng tượng về những mùa vàng chết dẫm quen thuộc bám riết thân phận héo hon đầy đủ xác thịt lẫn niềm mẫn cảm hân hoan, chỉ để nghĩ về sự tồn tại của chính mình khi rời bỏ một thiên tình sử.
Rồi bất giác, tôi quyết tâm chuồi chân khỏi giường. Dù sao, tôi vẫn thích rời đi, hẳn chỉ là việc đi dọc một cung đường cũ kỹ, đạp lên những tầng lá vàng mục ruỗng. Có thể ngay lúc ấy, ý nghĩ chạy trốn sẽ không bám riết lấy tôi nữa. Tôi biết thế, vì rằng với tôi chạy trốn cũng có nghĩa là chết. Những mùa vàng nhấp nháy trong nắng, nhắc nhở tôi về một thiên tình sử tháng ba đã chết.
5.
Anh ngồi tựa gốc cây long não, nằm ngay vỉa hè đối diện một nhà tu kín. Đôi mắt anh không có nắng. Chúng nhợt nhạt một màu xám lạnh buốt như băng tuyết không bao giờ tan. Buổi sáng mùa đông dù ướt đẫm sương vẫn trong veo mắt anh. Chúng không có màu xám buồn như đôi mắt của nàng. Anh đến nơi này biết bao lần, chỉ để ngồi xuống gốc cây long não vào những ngày đông buốt lạnh, và ngắm những tầng lá thủng trên đầu. Sương tan, một chút nắng khe khẽ lọt qua kẽ lá. Vừa đủ để anh mường tượng bầu trời ở quê anh đang lặng lẽ chơi trò xâu kim một cách buồn tẻ và chán ngắt. Anh không có hứng thú trải nghiệm những khoảnh khắc an lạc này. Anh chỉ muốn hồi tưởng về một thiên tình sử, về một cánh hạc hồng đỏ anh lỡ tay gấp dang dở cho nàng.
Thi thoảng anh gắng ngước mắt nhìn lên. Bầu trời tựa hồ mảnh lưới đã bị người ta cắt thủng dần dần, và sau đó chúng toang hoác trống trải như lồng ngực anh lúc này. Dưới gốc cây long não. Tất thảy mọi hiện thể đều rõ ràng như một tạo khối chiaro và oscuro của nghệ thuật hội họa Ý. Anh chợt nhớ ra, hình như anh đã rời bỏ những mùa vàng từ khá lâu rồi để lang thang trong lòng thành phố này, anh rời bỏ cả những chiếc thuyền ánh bạc nơi quê anh để tìm kiếm những ánh bạc khác ở đô thành xa hoa.
Anh đã không tìm thấy.
Mọi hiện cảnh trước mắt anh chỉ là một dải băng màu xám vắt ngang trời chiều khi anh ngồi xuống nơi nào đó trong dáng vẻ mệt mỏi thất thểu. Anh bỗng nhớ quê, nhớ biển, nhớ những con thuyền căng buồm no gió ngoài khơi. Anh nghĩ, chẳng thể nào bắt gặp thứ tình yêu kì lạ bằng nơi đã chôn giấu linh hồn anh.
Ở đâu, anh cũng bắt gặp những mảnh lưới. Chúng giăng mắc khắp mọi nơi. Như mạng nhện. Chúng dệt trời chiều thành bức tường thép gai ngay tại tòa thánh thiêng liêng giữa lòng phố thị, chúng dệt thành tấm lưới khổng lồ chụp xuống bờ bãi, nơi rất mực hiền lành yên ả của quê anh. Những tấm lưới chuyển dần sang màu ráng đỏ pha sắc mặt trời lẫn lộn giữa xác cá phơi trắng bụng như ánh của đêm trăng lạnh lẽo.
Cuối ngày làm việc, trở về nơi trú ẩn là căn phòng trọ ngay tại một thành phố lớn, anh lại tiếp tục hồi tưởng về những mùa vàng kì lạ trong kí ức. Nhưng, hệt như một cơn gió vô tình vậy, chúng biến mất, khi anh chưa kịp chạm tay vào thứ sắc màu đó. Anh thở dài, nằm xuống chiếc giường cũ kĩ sột soạt tiếng mọt trong những thanh dằm gỗ, nhắm mắt lại, và mơ. Anh mơ về những con hạc đỏ hồng, anh gấp dang dở. Anh mơ về đám lá mục ruỗng kêu lạo xạo dưới chân một ai đó vừa quen vừa lạ. Anh mơ về những ngọn đồi cao, và xa tít tắp. Nhưng, cuối cùng thứ mà anh thấy trong giấc mơ vẫn là những mắt lưới.
Ngoài những mắt lưới ra, anh chẳng còn nhìn thấy gì khác nữa. Anh ngắm nghía đám mắt lưới vô hình vây bủa tứ phía, lòng nặng trĩu. Giá sự nặng trĩu này là những khoang thuyền đầy nắng, lấp lánh nụ cười của người đàn bà và những đứa trẻ anh yêu mỗi lần anh trở về từ đại dương mênh mông kia. Quê anh là nơi có những khoang thuyền buồn, rũ rượi. Anh chợt thấy lòng thuyền rỗng tuếch nhìn anh chế giễu: “mẹ thiên nhiên đang nổi giận, biển chẳng cho không ai một thứ gì”. Anh lắng nghe điều đó, những tiếng nói rì rầm nấp trong sóng. Mỗi lần mơ về lòng thuyền và những mắt lưới, anh lại quên mất nàng, quên mất thiên tình sử đầy hồi ức mà anh tựa vào nó để linh hồn anh tồn tại.
Đó chỉ là một giấc mơ.
Âm thanh nhộn nhịp của một buổi sáng mới đã bắt đầu rối rít thúc giục. Anh bật dậy, nhìn quanh quất nơi trú ẩn tạm bợ của anh, rồi khẽ kéo tấm che cửa sổ. Nắng đã bắt đầu le lói. Nhưng không phải nắng của những mùa vàng, không phải nắng sớm của biển, khi anh trở về từ đại dương xanh thẳm với một khoang thuyền lấp lánh ánh bạc. Anh muốn về nhà. Ý nghĩ đầu tiên trong một buổi sáng lành lạnh hơi sương cuối mùa đông, chớm xuân. Dường như ai cũng muốn trở về nhà, không phải chỉ riêng anh, nơi này, xa lạ. Hẳn nàng cũng vậy. Thiên tình sử buồn dang dở của anh.
Anh không muốn nằm mơ nữa. Rồi nàng cũng sẽ thế.
Những mùa vàng chói chang ánh sáng, khiến anh thêm mờ mịt nhận thức về sự sống. Anh chưa bao giờ nghĩ đến cái chết. Hoặc nếu có, nó cũng chỉ thoáng qua như một áng mây giễu cợt, dưới hình hài của một gã hề mũi khoằm tay cầm lưỡi hái đang nhảy nhót trên sườn núi và đi dần về phía bóng tối. Nàng thì ngược lại. Nàng luôn thích đùa chơi với những suy tưởng về sự tồn tại của con người, hoặc của chính nàng.
Buổi sáng này, khác hẳn với những buổi sáng trước. Anh thức dậy sớm hơn thường lệ. Nơi anh trú ngụ cũng đều đặn nghe thấy tiếng đường ray nghiến kèn kẹt lúc xa lúc gần. Anh lấy chiếc va li cũ kỹ phủ bụi trên nóc tủ quần áo xuống, ngồi xếp đặt thật gọn ghẽ, rồi rời căn phòng trọ. Anh đi dọc phố, men theo cung đường quen thuộc, đến gần gốc cây long não. Anh ngồi xuống, ngước nhìn một bầu trời trong veo, vài lộc non đã bắt đầu đâm chồi trên nhánh cây long não.
Anh đã quyết định, sẽ không nằm mơ nữa.
Những mùa vàng bao giờ cũng lảo đảo như một cơn say nắng bất thường.
T.B.K
(TCSH349/03-2018)
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.
THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.
XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.
PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...
PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.
QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.
XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.