Những kẻ văn minh

09:34 07/09/2018

CLAUDE FARRÈRE

Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.

Nhà văn Claude Farrère và tiểu thuyết "Les Civilisés"- Ảnh: internet

Họ là những nhà cai trị, những luật sư, trùm thuế, bác sĩ, chủ sòng bạc bê tha trụy lạc, con đẻ chính thống của chủ nghĩa đế quốc thực dân Pháp được đưa sang cai trị nước Việt Nam.
Những kẻ văn minh ra đời ở Paris đầu những năm 1900, đã trải qua nhiều cuộc tranh luận sôi nổi và cuối cùng đến tháng 12 năm 1905 đã được Viện Hàn lâm Pháp trao giải thưởng Goncourt danh giá.
Dưới đây,
Sông Hương xin giới thiệu đoạn 1 trong cuốn tiểu thuyết này của dịch giả Lê Trọng Sâm.   



Những kẻ văn minh

1.
Trên sân, giữa ngôi nhà và hàng rào sắt, cạnh những cây phượng vĩ lớn tỏa bóng mát, hai tay kéo xe Bắc kỳ đẩy chiếc xe sang trọng mới sơn có dát bạc, nửa thân trên của họ nằm đúng giữa hai càng xe ghếch lên trời theo hướng mũi tên. Họ đang đợi ông chủ, đứng yên như hai pho tượng mặc áo lụa. Chiếc xe và hai người kéo làm thành một bộ sậu đỏm dáng đẹp như tranh giữa đất Sài Gòn. Nơi đây, những em gái nhỏ đi một mình cùng ngồi chung xe với người lớn. Nhưng ông đốc tờ Raymông Mêvil này hay có tính kỳ quặc. Có người nói ông ta còn có một chiếc xe ngựa với đôi ngựa thường hay bon nước kiệu. Thiên hạ quanh đây còn cho ông ta là một con người độc đáo thích đi xe có người kéo, việc này phạm vào kiểu cách ăn chơi xa hoa đương thời ở đây.

Bốn giờ chiều. Mọi người vừa thức dậy sau giấc trưa. Ông bác sĩ thường không tiếp bệnh nhân đến khám muộn, đây là một biện pháp kín đáo trong một xứ sở có những con đường vắng người cho đến khi trời sắp tối. Hôm đó, ông ra khỏi nhà sớm, không phải để đi dạo chơi như thường lệ trước bữa ăn tối nhưng là một cuộc đi thăm bán chuyên nghiệp mà ông thích làm cách quãng, chiến thuật này đã trở nên rất hiếm.

Một congai(1) có búi tóc láng lẩy đến mở cửa, nói vài câu bông đùa ngọt sớt với hai người kéo xe và bỗng nhiên im bặt. Ông chủ sắp đi qua. Ông bước xuống bậc thềm với bước đi nhè nhẹ dù đã hơi kéo lê ngón tay trỏ vuốt nhẹ vào hai chiếc vú cô gái qua chiếc áo lụa màu đen và bước lên chiếc xe nhỏ, hai tay kéo chạy ba chân bốn cẳng để ngọn gió mạnh làm mát khuôn mặt người phương Tây này.

Qua các khe hở cửa sổ nhỏ thường đóng kín chống nắng trời, các bà nhìn và ca ngợi bộ trang phục màu trắng rất đẹp có viền tím rất kiểu cách của vị bác sĩ, ca ngợi vẻ đẹp của người đang đi dạo lôi cuốn hơn quang cảnh xa hoa quanh đây. Bác sĩ Mêvil được các bà yêu mến vì trước hết ông yêu mến họ và chỉ yêu mến mà thôi. Hơn nữa, bởi vì ông đẹp, một vẻ đẹp làm các bà luống cuống một vẻ đẹp nhuốm máu xác thịt và lẳng lơ sổ sàng kiểu phương tây. Da ông trắng với đầu tóc hoe, đôi mắt màu xanh đậm mở to và một khuôn miệng nhỏ màu đỏ. Dù đã qua tuổi ba mươi, ông tỏ ra còn tuổi thiếu niên và tuy to béo người ta nói ông còn mảnh mai. Bộ râu mép dài và sáng làm ông ta giống hệt một người Gôloa(2) đang tàn lụi mà thời gian sẽ làm ông tinh tế và nhuần nhị hơn.

Quả là một sự giống nhau ngẫu nhiên. Mêvil huênh hoang khoe mình là một người văn minh rất đúng nghĩa đến mức toàn bộ những dòng máu của mọi nguồn cội trên trời chắc chắn đã được hòa trộn trong mạch máu ông ta.

Xe kéo lướt qua những hàng cây bên vệ đường tránh được những tia nắng mặt trời rọi chọc xuống như chúng cũng lại gây chết người như lưỡi chày bằng sắt. Ông chủ chỉ đường cho hai người kéo với đầu chiếc can. Muốn họ dừng lại, ông la to: “Đến rồi!” vừa đập đập vào vai họ. Tất cả lẫn vào khu vườn ngay trước tòa nhà biệt thự. Suốt chiều dài hàng rào sắt, nhiều xe đang đợi với những cậu con ngựa An Nam chỉ cao bằng đôi ủng cao của họ, tay bám chặt chiếc hàm thiếc ngựa.

- Ừ - Mêvil nói - hôm nay là ngày của cô bé thương yêu đây, suýt nữa quên mất.

Ông ngập ngừng, nhún đôi vai, lật tìm tập danh thiếp trong túi, xem lại những gì còn bên trong, hóa ra còn nhiều thẻ tín dụng của ngân hàng Đông Dương. Ông ném chiếc can xuống đất, một cậu bé chạy tới nhặt lấy và ông bước vào.

Một ngôi nhà cũ khá rộng xông lên trăm phần trăm mùi vị thuộc địa. Hai phòng đợi dẫn tới một hàng hiên với những tấm sáo dày. Toàn khu nhà khá rộng ta có thể bị lạc và cao lên như một nhà thờ đạo, những chiếc cột không cao tận trần nhà, làn hơi âm ấm tỏa ra dưới các bộ rầm gỗ. Bên dưới lại mát mẻ, các đồ vật đều bằng gỗ gụ cẩn xà cừa đặc mùi bản xứ.

Giữa tiền sảnh, Raymông Mêvil chạm vào một người đang đi ra, một nhân vật quan trọng mày râu nhẵn nhụi, màu da vàng nhạt, cử chỉ khá nặng nề. Đây là vị chủ nhà Ariét, luật sư ở Tòa án thành phố. Hai người thắm thiết bắt tay nhau. Khuôn mặt buồn của ông luật sư lảng tránh đi nụ cười chúc mừng không phải để tôn vinh vị khách của ông ta.

Minh họa: Đặng Mậu Tựu


- Ông bạn yêu quý, nhà tôi đang ở đây - ông nói - tốt quá khi bạn đến đây thăm bà nhà tôi. Lâu rồi tôi không có niềm vui được đón bạn tại nhà.

- Bạn thân yêu, xin bạn hiểu cho - Mêvil nói - chỉ nên kết tội bệnh lười của tôi thôi, còn đối với tôi, nhà anh luôn là ngôi nhà thắm thiết nhất ở Sài Gòn này.

Ông luật sư làm ra vẻ thích thú và hình như cũng để vơi nhẹ đi nỗi lo lắng.

- Bác sĩ thân yêu, xin anh cứ ở lại đây. Xin anh biết cho, Tòa án luôn gọi tôi bất cứ lúc nào.

- Vụ án ra sao rồi?

- Tất nhiên là ly dị rồi. Chúng tôi đang sống quãng thời gian quá ngán ngẩm.

Ông luật sư bước ra, tay nắm chặt chiếc khăn mặt, bước đi khô khan như cái máy với vẻ lạnh lùng bực tức. Raymông Mêvil cườn thầm và nhăn mặt sau lưng ông ta.

Trong phòng khách, tám đến mười bà đang nói ba hoa, mặt mày rạng rỡ nhưng lại cẩn thả trong những bộ đầm dài Sài Gòn giống các loại áo choàng xa hoa. Ở bậc cửa, Mêvil liếc nhìn các bà, nhanh chóng vượt qua đám này, trước tiên đến chào nữ chủ nhân, một bà quá xinh đẹp, da hơi nâu với đôi mắt trong trắng đang chìa tay để được hôn.

- Ông Khả năng(3) đây rồi - bà nói - hôm nay có ngọn gió lành nào vậy?

- Khả năng đây - ông bác sĩ trả lời - Tôi đến đây thành tâm tỏ lòng quý trọng của mình dưới chân Luật sư đoàn.

Cậu nghiêng mình trước mỗi bà, nói những lời tình tứ - cả ngu xuẩn nữa - và ngồi xuống cạnh họ. Cậu đã trở thành tâm điểm của mọi mắt nhìn. Các bà nhìn cậu ta đầy thích thú với danh xưng nổi tiếng Don Juan(4) được nhắc tới luôn. Cậu không hề luống cuống và cứ thế mà tán chuyện. Với bản tính lông bông, cậu ta biết cách tuôn ra những gì mình có, dùng lối nói phù phiếm này thành một thứ vũ khí trong các buổi tán tỉnh yêu đương. Ai cũng biết cậu ta là một người tầm phơ ái nữ nhưng người ta dễ thổ lộ tâm tình với cậu chẳng chút ngại ngùng hoặc tự ái gì.

Bỗng nhiên bà Ariet nói: - Tôi sẽ đến nhà ông đúng lúc, ông lang băm ạ.

- Bà đau đớn lắm à?

- Không, nhưng sao tôi nghi quá. Tháng 12, hả? Dù gì đi nữa, ta không thể về nông thôn được vào lúc ấy, mùa trọng tội đang sôi nổi. Vậy ông cần phải gỡ cho xong việc khó khăn này của tôi bằng cách nào.

- Đó là một trò trẻ con.

- Những viên thuốc của ông, phải không? Tôi không còn đơn thuốc ở đây nữa.

Mêvil đứng dậy lấy hộp danh thiếp.

- Tôi đưa bà một viên đây.

- Sao? Thưa bác sĩ - một bà nói - ông chữa bệnh bằng cái nhiệt kế à?

- Đúng. Tôi cho bà ta những đơn thuốc viết tay như thế này ghi sau danh thiếp của tôi.

Cậu chống tay vào chiếc bàn một chân ở góc phòng, viết nguệch ngoạc gì đó. Viết xong, cậu để lại tấm giấy và trở lại.

- Đây, bà sẽ dùng nó trong mười lăm ngày….

- Ồ! Thưa bác sĩ - một bà trẻ nói - Cho tôi xin công thức pha chế thuốc này và với lòng thương của Chúa xin đừng lấy tiền công.

- Lòng thương của Chúa không đủ đâu - Raymông chế nhạo chống lại - Nhưng bà thân yêu ơi! xin bà đến phòng mạch của tôi, mọi việc sẽ được thu xếp ổn thỏa.

Khá bình tĩnh, cậu cười và bỏ đi.

Phút sau, một bà tọc mạch chạy lại xem đơn thuốc còn để trên bàn một chân. Bà nói to: - Á, ông Mêvil này lại để quên tấm danh thiếp.

- Ông này luôn để quên một thứ gì đó - Bà Ariét nói với nụ cười thanh thản.

Raymông cười theo và lên xe. Khi hai người kéo ngước nhìn, cậu ra lệnh: “Capiten Malai”, và ngã xuống tấm nệm da. Xe chạy nước kiệu.

Capiten ở cuối đại lộ Nôrôđôm và đường Mắc Mahông trước mặt dinh Thống đốc Nam kỳ trong ngôi nhà sang trọng nhất Sài Gòn. Ông ta có một biệt danh Annamit với ý nghĩa là một người hào hoa phong nhã, không liên quan gì với chiến binh, chiến sĩ. Ông là một nhà tài chính đáng kính nể bởi số tiền hàng triệu đồng của ông ta và thói quen dùng tiền của mình. Ông lãnh thầu các sắc thuế, một uy lực to lớn ai cũng phải dựa vào. Mặt khác, ông là một người sống theo công thức Mỹ: “Một người không phải sinh ra đã có, phải tự mình làm lấy”. Ông là chồng của một bà vợ xinh đẹp không phải là dân thuộc địa.

Ông Raymông Mêvil thấy bà này phù hợp với sở thích của mình, tìm mọi cách để được gần bà.

Bà Malai đang ngồi đọc sách ở mái hiên, ông chồng ngồi cạnh. Hàng hiên này là một phòng khác dành cho nữ giới kiểu thời vua Louis XV(5) một hàng hiên tuyệt đẹp toàn màu xanh với những đoạn lan can đá cẩm thạch trắng xoi suốt. Vẻ đẹp kín đáo của bà vợ trẻ trong sắc đẹp một nữ hầu tươi có bộ tóc vàng hoe và nét mặt trầm tư phản chiếu cành sắc này được tạo ra cho bà.

Anh hầu phong người Âu - một thói xa hoa hiếm thấy ở Sài Gòn - đưa vào tấm danh thiếp của Mêvil.

- Em gọi ông đốc tờ đến à? - Nhà tài chính hỏi.

Bà Malai đặt sách xuống và ra hiệu là không.

- Vậy là cậu ta đến đây để tán tỉnh em đấy - Ông chồng nói - Em yêu, cứ để cậu ta nói nhưng không nên nhận những viên thuốc phiện nào của cậu ta.

Mặt bà đỏ lên nhiều. Làn da mỏng mảnh trong suốt ửng lên màu đỏ qua những xáo động nhẹ nhất trong tâm hồn.

- Henri, anh nói gì vậy? - Bà nói.

Ông ôm hôn bà, lòng đầy tin tưởng.

- Anh cho rằng em đang yêu theo kiểu con gái mới lớn và anh để em tự nhiên. Công việc thu thuế bó buộc anh rất nhiều. Cứ ở lại với đức ông của em và đẩy cậu ta đi khi cậu làm em khó chịu. Nghĩ cho cùng, cũng không phải là lỗi của cậu ta, cậu khốn khổ này đã đi lạc địa chỉ. Em yêu, ở Sài Gòn này, một người quen như em thì quả thật là vô cùng ngược đời.

Ông bắt gặp Mêvil ở cầy thang.

- Chào bác sĩ - Ông nói với giọng chắc nịch quen thuộc khác xa với giọng dịu dàng lúc nãy khi ve vuốt bà vợ - Lên đi, người ta chờ anh trên đó nhưng không được nghịch ngợm nghe, rõ chưa? Tôi không muốn một viên nhỏ côcain quý giá nào nữa của anh lọt vào nhà tôi, chắc nhé!

Mêvil lấy tay phản đối:

- Được, rõ rồi. Một miligam cũng không.

- Bà vợ tôi chưa bị rối loạn đầu óc đâu mà nếu anh muốn, chúng ta hãy để vợ tôi như hiện nay. Hẹn gặp lại! Rất vui được gặp anh.

Ông Malai đi ra với những bước chân chắc nịch, những bước chân đang vang lên rất oan trên các bậc đá cẩm thạch. Ông đi và không quay lại nhìn.  

C.F.
(TCSH354/08-2018)

--------------------
1. Một từ người Pháp thời thuộc địa ở Việt Nam thường dùng để chỉ các cô gái còn ít tuổi.
2. Gaulois: Tên nước Pháp thời xưa (La Gaule)
3. Khả năng quyến rũ các bà của Mêvil.
4. Don Juan, tên một nhân vật tán gái lừa bịp, nổi tiếng trong vở kịch cùng tên của Molière.
5. Vua Pháp Louis XV, làm vua từ năm 1715 đến 1774.  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.