CLAUDE FARRÈRE
Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.
Nhà văn Claude Farrère và tiểu thuyết "Les Civilisés"- Ảnh: internet
Họ là những nhà cai trị, những luật sư, trùm thuế, bác sĩ, chủ sòng bạc bê tha trụy lạc, con đẻ chính thống của chủ nghĩa đế quốc thực dân Pháp được đưa sang cai trị nước Việt Nam.
Những kẻ văn minh ra đời ở Paris đầu những năm 1900, đã trải qua nhiều cuộc tranh luận sôi nổi và cuối cùng đến tháng 12 năm 1905 đã được Viện Hàn lâm Pháp trao giải thưởng Goncourt danh giá.
Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu đoạn 1 trong cuốn tiểu thuyết này của dịch giả Lê Trọng Sâm.
Những kẻ văn minh
1.
Trên sân, giữa ngôi nhà và hàng rào sắt, cạnh những cây phượng vĩ lớn tỏa bóng mát, hai tay kéo xe Bắc kỳ đẩy chiếc xe sang trọng mới sơn có dát bạc, nửa thân trên của họ nằm đúng giữa hai càng xe ghếch lên trời theo hướng mũi tên. Họ đang đợi ông chủ, đứng yên như hai pho tượng mặc áo lụa. Chiếc xe và hai người kéo làm thành một bộ sậu đỏm dáng đẹp như tranh giữa đất Sài Gòn. Nơi đây, những em gái nhỏ đi một mình cùng ngồi chung xe với người lớn. Nhưng ông đốc tờ Raymông Mêvil này hay có tính kỳ quặc. Có người nói ông ta còn có một chiếc xe ngựa với đôi ngựa thường hay bon nước kiệu. Thiên hạ quanh đây còn cho ông ta là một con người độc đáo thích đi xe có người kéo, việc này phạm vào kiểu cách ăn chơi xa hoa đương thời ở đây.
Bốn giờ chiều. Mọi người vừa thức dậy sau giấc trưa. Ông bác sĩ thường không tiếp bệnh nhân đến khám muộn, đây là một biện pháp kín đáo trong một xứ sở có những con đường vắng người cho đến khi trời sắp tối. Hôm đó, ông ra khỏi nhà sớm, không phải để đi dạo chơi như thường lệ trước bữa ăn tối nhưng là một cuộc đi thăm bán chuyên nghiệp mà ông thích làm cách quãng, chiến thuật này đã trở nên rất hiếm.
Một congai(1) có búi tóc láng lẩy đến mở cửa, nói vài câu bông đùa ngọt sớt với hai người kéo xe và bỗng nhiên im bặt. Ông chủ sắp đi qua. Ông bước xuống bậc thềm với bước đi nhè nhẹ dù đã hơi kéo lê ngón tay trỏ vuốt nhẹ vào hai chiếc vú cô gái qua chiếc áo lụa màu đen và bước lên chiếc xe nhỏ, hai tay kéo chạy ba chân bốn cẳng để ngọn gió mạnh làm mát khuôn mặt người phương Tây này.
Qua các khe hở cửa sổ nhỏ thường đóng kín chống nắng trời, các bà nhìn và ca ngợi bộ trang phục màu trắng rất đẹp có viền tím rất kiểu cách của vị bác sĩ, ca ngợi vẻ đẹp của người đang đi dạo lôi cuốn hơn quang cảnh xa hoa quanh đây. Bác sĩ Mêvil được các bà yêu mến vì trước hết ông yêu mến họ và chỉ yêu mến mà thôi. Hơn nữa, bởi vì ông đẹp, một vẻ đẹp làm các bà luống cuống một vẻ đẹp nhuốm máu xác thịt và lẳng lơ sổ sàng kiểu phương tây. Da ông trắng với đầu tóc hoe, đôi mắt màu xanh đậm mở to và một khuôn miệng nhỏ màu đỏ. Dù đã qua tuổi ba mươi, ông tỏ ra còn tuổi thiếu niên và tuy to béo người ta nói ông còn mảnh mai. Bộ râu mép dài và sáng làm ông ta giống hệt một người Gôloa(2) đang tàn lụi mà thời gian sẽ làm ông tinh tế và nhuần nhị hơn.
Quả là một sự giống nhau ngẫu nhiên. Mêvil huênh hoang khoe mình là một người văn minh rất đúng nghĩa đến mức toàn bộ những dòng máu của mọi nguồn cội trên trời chắc chắn đã được hòa trộn trong mạch máu ông ta.
Xe kéo lướt qua những hàng cây bên vệ đường tránh được những tia nắng mặt trời rọi chọc xuống như chúng cũng lại gây chết người như lưỡi chày bằng sắt. Ông chủ chỉ đường cho hai người kéo với đầu chiếc can. Muốn họ dừng lại, ông la to: “Đến rồi!” vừa đập đập vào vai họ. Tất cả lẫn vào khu vườn ngay trước tòa nhà biệt thự. Suốt chiều dài hàng rào sắt, nhiều xe đang đợi với những cậu con ngựa An Nam chỉ cao bằng đôi ủng cao của họ, tay bám chặt chiếc hàm thiếc ngựa.
- Ừ - Mêvil nói - hôm nay là ngày của cô bé thương yêu đây, suýt nữa quên mất.
Ông ngập ngừng, nhún đôi vai, lật tìm tập danh thiếp trong túi, xem lại những gì còn bên trong, hóa ra còn nhiều thẻ tín dụng của ngân hàng Đông Dương. Ông ném chiếc can xuống đất, một cậu bé chạy tới nhặt lấy và ông bước vào.
Một ngôi nhà cũ khá rộng xông lên trăm phần trăm mùi vị thuộc địa. Hai phòng đợi dẫn tới một hàng hiên với những tấm sáo dày. Toàn khu nhà khá rộng ta có thể bị lạc và cao lên như một nhà thờ đạo, những chiếc cột không cao tận trần nhà, làn hơi âm ấm tỏa ra dưới các bộ rầm gỗ. Bên dưới lại mát mẻ, các đồ vật đều bằng gỗ gụ cẩn xà cừa đặc mùi bản xứ.
Giữa tiền sảnh, Raymông Mêvil chạm vào một người đang đi ra, một nhân vật quan trọng mày râu nhẵn nhụi, màu da vàng nhạt, cử chỉ khá nặng nề. Đây là vị chủ nhà Ariét, luật sư ở Tòa án thành phố. Hai người thắm thiết bắt tay nhau. Khuôn mặt buồn của ông luật sư lảng tránh đi nụ cười chúc mừng không phải để tôn vinh vị khách của ông ta.
![]() |
Minh họa: Đặng Mậu Tựu |
- Ông bạn yêu quý, nhà tôi đang ở đây - ông nói - tốt quá khi bạn đến đây thăm bà nhà tôi. Lâu rồi tôi không có niềm vui được đón bạn tại nhà.
- Bạn thân yêu, xin bạn hiểu cho - Mêvil nói - chỉ nên kết tội bệnh lười của tôi thôi, còn đối với tôi, nhà anh luôn là ngôi nhà thắm thiết nhất ở Sài Gòn này.
Ông luật sư làm ra vẻ thích thú và hình như cũng để vơi nhẹ đi nỗi lo lắng.
- Bác sĩ thân yêu, xin anh cứ ở lại đây. Xin anh biết cho, Tòa án luôn gọi tôi bất cứ lúc nào.
- Vụ án ra sao rồi?
- Tất nhiên là ly dị rồi. Chúng tôi đang sống quãng thời gian quá ngán ngẩm.
Ông luật sư bước ra, tay nắm chặt chiếc khăn mặt, bước đi khô khan như cái máy với vẻ lạnh lùng bực tức. Raymông Mêvil cườn thầm và nhăn mặt sau lưng ông ta.
Trong phòng khách, tám đến mười bà đang nói ba hoa, mặt mày rạng rỡ nhưng lại cẩn thả trong những bộ đầm dài Sài Gòn giống các loại áo choàng xa hoa. Ở bậc cửa, Mêvil liếc nhìn các bà, nhanh chóng vượt qua đám này, trước tiên đến chào nữ chủ nhân, một bà quá xinh đẹp, da hơi nâu với đôi mắt trong trắng đang chìa tay để được hôn.
- Ông Khả năng(3) đây rồi - bà nói - hôm nay có ngọn gió lành nào vậy?
- Khả năng đây - ông bác sĩ trả lời - Tôi đến đây thành tâm tỏ lòng quý trọng của mình dưới chân Luật sư đoàn.
Cậu nghiêng mình trước mỗi bà, nói những lời tình tứ - cả ngu xuẩn nữa - và ngồi xuống cạnh họ. Cậu đã trở thành tâm điểm của mọi mắt nhìn. Các bà nhìn cậu ta đầy thích thú với danh xưng nổi tiếng Don Juan(4) được nhắc tới luôn. Cậu không hề luống cuống và cứ thế mà tán chuyện. Với bản tính lông bông, cậu ta biết cách tuôn ra những gì mình có, dùng lối nói phù phiếm này thành một thứ vũ khí trong các buổi tán tỉnh yêu đương. Ai cũng biết cậu ta là một người tầm phơ ái nữ nhưng người ta dễ thổ lộ tâm tình với cậu chẳng chút ngại ngùng hoặc tự ái gì.
Bỗng nhiên bà Ariet nói: - Tôi sẽ đến nhà ông đúng lúc, ông lang băm ạ.
- Bà đau đớn lắm à?
- Không, nhưng sao tôi nghi quá. Tháng 12, hả? Dù gì đi nữa, ta không thể về nông thôn được vào lúc ấy, mùa trọng tội đang sôi nổi. Vậy ông cần phải gỡ cho xong việc khó khăn này của tôi bằng cách nào.
- Đó là một trò trẻ con.
- Những viên thuốc của ông, phải không? Tôi không còn đơn thuốc ở đây nữa.
Mêvil đứng dậy lấy hộp danh thiếp.
- Tôi đưa bà một viên đây.
- Sao? Thưa bác sĩ - một bà nói - ông chữa bệnh bằng cái nhiệt kế à?
- Đúng. Tôi cho bà ta những đơn thuốc viết tay như thế này ghi sau danh thiếp của tôi.
Cậu chống tay vào chiếc bàn một chân ở góc phòng, viết nguệch ngoạc gì đó. Viết xong, cậu để lại tấm giấy và trở lại.
- Đây, bà sẽ dùng nó trong mười lăm ngày….
- Ồ! Thưa bác sĩ - một bà trẻ nói - Cho tôi xin công thức pha chế thuốc này và với lòng thương của Chúa xin đừng lấy tiền công.
- Lòng thương của Chúa không đủ đâu - Raymông chế nhạo chống lại - Nhưng bà thân yêu ơi! xin bà đến phòng mạch của tôi, mọi việc sẽ được thu xếp ổn thỏa.
Khá bình tĩnh, cậu cười và bỏ đi.
Phút sau, một bà tọc mạch chạy lại xem đơn thuốc còn để trên bàn một chân. Bà nói to: - Á, ông Mêvil này lại để quên tấm danh thiếp.
- Ông này luôn để quên một thứ gì đó - Bà Ariét nói với nụ cười thanh thản.
Raymông cười theo và lên xe. Khi hai người kéo ngước nhìn, cậu ra lệnh: “Capiten Malai”, và ngã xuống tấm nệm da. Xe chạy nước kiệu.
Capiten ở cuối đại lộ Nôrôđôm và đường Mắc Mahông trước mặt dinh Thống đốc Nam kỳ trong ngôi nhà sang trọng nhất Sài Gòn. Ông ta có một biệt danh Annamit với ý nghĩa là một người hào hoa phong nhã, không liên quan gì với chiến binh, chiến sĩ. Ông là một nhà tài chính đáng kính nể bởi số tiền hàng triệu đồng của ông ta và thói quen dùng tiền của mình. Ông lãnh thầu các sắc thuế, một uy lực to lớn ai cũng phải dựa vào. Mặt khác, ông là một người sống theo công thức Mỹ: “Một người không phải sinh ra đã có, phải tự mình làm lấy”. Ông là chồng của một bà vợ xinh đẹp không phải là dân thuộc địa.
Ông Raymông Mêvil thấy bà này phù hợp với sở thích của mình, tìm mọi cách để được gần bà.
Bà Malai đang ngồi đọc sách ở mái hiên, ông chồng ngồi cạnh. Hàng hiên này là một phòng khác dành cho nữ giới kiểu thời vua Louis XV(5) một hàng hiên tuyệt đẹp toàn màu xanh với những đoạn lan can đá cẩm thạch trắng xoi suốt. Vẻ đẹp kín đáo của bà vợ trẻ trong sắc đẹp một nữ hầu tươi có bộ tóc vàng hoe và nét mặt trầm tư phản chiếu cành sắc này được tạo ra cho bà.
Anh hầu phong người Âu - một thói xa hoa hiếm thấy ở Sài Gòn - đưa vào tấm danh thiếp của Mêvil.
- Em gọi ông đốc tờ đến à? - Nhà tài chính hỏi.
Bà Malai đặt sách xuống và ra hiệu là không.
- Vậy là cậu ta đến đây để tán tỉnh em đấy - Ông chồng nói - Em yêu, cứ để cậu ta nói nhưng không nên nhận những viên thuốc phiện nào của cậu ta.
Mặt bà đỏ lên nhiều. Làn da mỏng mảnh trong suốt ửng lên màu đỏ qua những xáo động nhẹ nhất trong tâm hồn.
- Henri, anh nói gì vậy? - Bà nói.
Ông ôm hôn bà, lòng đầy tin tưởng.
- Anh cho rằng em đang yêu theo kiểu con gái mới lớn và anh để em tự nhiên. Công việc thu thuế bó buộc anh rất nhiều. Cứ ở lại với đức ông của em và đẩy cậu ta đi khi cậu làm em khó chịu. Nghĩ cho cùng, cũng không phải là lỗi của cậu ta, cậu khốn khổ này đã đi lạc địa chỉ. Em yêu, ở Sài Gòn này, một người quen như em thì quả thật là vô cùng ngược đời.
Ông bắt gặp Mêvil ở cầy thang.
- Chào bác sĩ - Ông nói với giọng chắc nịch quen thuộc khác xa với giọng dịu dàng lúc nãy khi ve vuốt bà vợ - Lên đi, người ta chờ anh trên đó nhưng không được nghịch ngợm nghe, rõ chưa? Tôi không muốn một viên nhỏ côcain quý giá nào nữa của anh lọt vào nhà tôi, chắc nhé!
Mêvil lấy tay phản đối:
- Được, rõ rồi. Một miligam cũng không.
- Bà vợ tôi chưa bị rối loạn đầu óc đâu mà nếu anh muốn, chúng ta hãy để vợ tôi như hiện nay. Hẹn gặp lại! Rất vui được gặp anh.
Ông Malai đi ra với những bước chân chắc nịch, những bước chân đang vang lên rất oan trên các bậc đá cẩm thạch. Ông đi và không quay lại nhìn.
C.F.
(TCSH354/08-2018)
--------------------
1. Một từ người Pháp thời thuộc địa ở Việt Nam thường dùng để chỉ các cô gái còn ít tuổi.
2. Gaulois: Tên nước Pháp thời xưa (La Gaule)
3. Khả năng quyến rũ các bà của Mêvil.
4. Don Juan, tên một nhân vật tán gái lừa bịp, nổi tiếng trong vở kịch cùng tên của Molière.
5. Vua Pháp Louis XV, làm vua từ năm 1715 đến 1774.
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.