Nhà thơ Vĩnh Mai - người thầy của tôi

09:42 01/04/2009
PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.


Cách đây đã 60 năm, nhà thơ Vĩnh Mai không những là thủ trưởng của tôi mà còn là người dẫn dắt tôi vào con đường cách mạng, giới thiệu tôi vào Đảng Cộng sản Đông Dương, lại cử tôi theo học lớp huấn luyện văn hoá kháng chiến khu 4 ở Quần Tín huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá. Và sau đó còn cho tôi ở lại vùng tự do khu 4 cũ để học thêm văn hoá năm 1948, tại trường Trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng ở Hà Tĩnh và Nghệ An.

Trong thời gian kháng chiến 9 năm chống Pháp, tôi ở chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị) được hai năm, trong đó một năm ở ty thông tin tuyên truyền Quảng Trị. Làm việc trực tiếp dưới sự lãnh đạo của nhà thơ Vĩnh Mai. Hồi ấy Vĩnh Mai là uỷ viên thường vụ tỉnh uỷ, Ty trưởng ty thông tin tuyên truyền và cũng là trưởng ban tuyên huấn của tỉnh.

Lâu nay khi nói về đồng chí Vĩnh Mai, người ta thường nói về một nhà thơ. Trong khi đó đồng chí Vĩnh Mai còn là một nhà báo, và là một nhà báo có tài. Một tỉnh nhỏ như Quảng Trị mà hồi ấy riêng lĩnh vực Thông tin tuyên truyền có 2 tờ báo. Một tờ báo Tiếng Việt có tên là TIẾNG VANG, một tờ tiếng Pháp để làm địch vận mang tên ECHO (dịch ra tiếng Việt cũng có nghĩa là vang). Cả hai tờ báo ấy, đồng chí Vĩnh Mai vừa là Tổng biên tập, chủ bút, chủ nhiệm. Đồng chí viết báo bằng hai thứ tiếng, viết rất nhanh. Một đặc điểm của tài làm báo của anh là nhạy bén, kịp thời, bảo đảm đúng đường lối của Đảng và Nhà nước. Bài nào cũng vậy chỉ viết một lần và gần như không sửa chữa gì. Hai tờ báo đó có tác dụng rất lớn đối với sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Quảng Trị hồi bấy giờ. Tôi nghĩ, lịch sử báo chí cách mạng nước ta cần tôn vinh thích đáng thành công của nó.

Tôi còn nhớ, hồi mới từ Thừa Thiên Huế được điều động ra tăng cường cho sự lãnh đạo của Đảng ở Quảng Trị, khi biết trong cơ quan lãnh đạo của tỉnh có trường hợp chồng là Bí thư Tỉnh uỷ, vợ là chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh; đồng chí Vĩnh Mai, với sự thẳng thắn, trực tính của mình nói ngay “Ở tỉnh ta thiếu người hay sao mà gia đình trị như thế”.

Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, đậu tú tài mà thoát ly gia đình làm cách mạng như đồng chí Vĩnh Mai, là trường hợp hiếm hoi.

Đồng chí rất giỏi tiếng Pháp, có những đêm ở Ba Lòng anh say sưa giảng cho một số cán bộ trẻ chúng tôi đã qua kỳ thi ban Thành chung những bài giảng về triết học tư sản phương Tây, hoặc về triết học Marx Lénine bằng tiếng Pháp. Tôi còn nhớ có lần anh tâm sự: Sau khi nước nhà giành được độc lập thống nhất, mình mơ ước làm giảng viên triết học. Sau giờ lên lớp mình sẽ dạo phố phường, đội mũ phớt mặc Complet Tây, đi dày da, cầm baton, vừa đi vừa suy nghĩ chuyện đời. Tiếc thay, ước mơ đó của anh đã không thành sự thật, nhưng cũng nói lên một khía cạnh về con người và tâm hồn của anh. Hồi ở Quảng Trị, thỉnh thoảng tôi có tháp tùng anh vượt qua quốc lộ, về công tác ở đồng bằng Triệu Phong Hải Lăng. Có lần ở Triệu Phong hai thầy trò đi qua một trạm gác, dân quân du kích hỏi giấy tờ. Tôi đưa trình tờ công lệnh đi đường. Anh dân quân xem xong không nói gì. Nhưng khi xem giấy tờ của anh Vĩnh Mai thì anh ta hỏi: Ông có giấy tờ gì khác không? Giấy này không hợp lệ. Anh Vĩnh Mai hỏi lại: Vì sao? Anh dân quân nói: Giấy này cấp cho ông Vĩnh Mai đi đường, mà người ký giấy lại cũng là ông Vĩnh Mai thì không được. Đồng chí Vĩnh Mai nổi bực hỏi lại: Tôi là Ty trưởng, tôi cấp cho người khác được sao tôi cấp cho tôi lại không được. Hai bên giằng co, một lúc sau anh dân quân cũng cho đi, thật là hú vía. Tính tình ngang bướng của Vĩnh Mai là như vậy.

Tôi có dịp họp chi bộ định kỳ ở chiến khu Ba Lòng. Hồi ấy tôi mới vào Đảng nên rất bỡ ngỡ. Cuộc họp có các đồng chí lãnh đạo tỉnh như Đặng Thí (Bí thư Tỉnh ủy), Hồng Chương… Không hiểu vì chuyện gì, đồng chí Vĩnh Mai sửng cồ phê bình cụ cử nhân Hán học, cụ Nguyễn Xuân Luyện là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chánh tỉnh rất gay gắt. Tôi trong bụng nghĩ rằng sao mà lại to tiếng với một cụ già mà là chủ tịch tỉnh như vậy. Nhưng họp xong thì lại vui vẻ với nhau ngay. Qua đó, lần đầu tiên, tôi mới thấy tính dân chủ, bình đẳng trong sinh hoạt Đảng là như thế nào.

Hồi ở Quảng Trị, tôi mới biết đồng chí Vĩnh Mai lao động nghệ thuật như thế nào. Không những viết báo nhanh mà làm thơ cũng rất nhanh. Dù chưa thật khổ công trong lựa chọn từ ngữ, gieo vần, lời thơ còn dàn trải, nhưng ở Ba Lòng tôi đã chứng kiến sự ra đời những đứa con tinh thần của anh, những bài thơ có giá trị. Sau những chuyến về đồng bằng, anh viết được bài Người du kích xã hay bài Mùa lúa mới. Đặc biệt tôi được theo dõi quá trình sáng tác bài thơ Khóc Hoài. Hồi ấy, sau một chuyến ra vùng tự do khu 4 dự hội nghị trở về Ba Lòng, mấy ngày liền anh trầm ngâm suy nghĩ. Rồi một buổi tối anh thức dậy đi tìm nước uống, rồi đốt đèn; một mạch viết xong bài thơ bất hủ. Những tình tiết trong bài thơ đều là sự thật cả; như ban đêm ngủ trên sạp nứa, ngoài trời gió thổi, lau lách xào xạc…

Có một mảng thơ anh viết hồi ở chiến khu nhưng về sau mới công bố. Đó là thơ viết về người yêu sau trở thành bạn đời: bà Phương Chi. Thơ tình của anh Vĩnh Mai với Phương Chi bao giờ cũng gắn liền với quê hương, làng anh làng em, với đất nước và đặc biệt là với ánh trăng, vầng trăng. Người ta nói thi sĩ thường hay phân chia tình yêu của mình cho nhiều cô gái, ở những thời kỳ khác nhau của cuộc đời, nhưng với anh Vĩnh Mai là chính chuyên. Tình yêu nam nữ chỉ dành cho một người duy nhất trong đời mình. Tôi nghĩ bà Phương Chi có quyền hãnh diện và tự hào vì mối tình trong sáng say đắm và thủy chung đó.

Trong thời gian ở Ba Lòng, lớp cán bộ trẻ chúng tôi thường được anh Vĩnh Mai bồi dưỡng cho về lý tưởng cách mạng. Tôi còn nhớ một hôm anh rất trang nghiêm và đầy tự hào nói về một người con của Quảng Trị. Anh không nói rõ tên, nhưng mãi về sau chúng tôi mới biết đó là đồng chí Lê Duẩn. Với đồng chí Nguyễn Chí Thanh người lãnh đạo trực tiếp Bình Trị Thiên lúc bấy giờ, đồng chí Vĩnh Mai rất kính phục và kính trọng.

Để kết thúc, tôi xin có đôi điều về sự cảm thụ của tôi với thơ Vĩnh Mai.

Thơ Vĩnh Mai chân chất mộc mạc phản ảnh thực tế đời sống chiến đấu và sản xuất của một vùng quê khu 4. Người ta hay nói văn là người, thơ là người. Điều này rất đúng khi ta nghĩ về thơ Vĩnh Mai. Với tâm hồn ấy mới có các hình tượng đưa vào thơ như ấp iu núm ruột, khi nói về người dân quân xã. Hoặc khi nói liếp cày vỡ đất ngon như nồi bánh đúc…

Tôi nghĩ khi nói về thơ kháng chiến chống Pháp ở tỉnh Quảng Trị, ta có thể quên Tân Trà, Hồng Chương, Dương Tường, Hồ Vy, Lương An, nhưng ta không thể quên nhắc Vĩnh Mai. Hoặc nhớ đến tất cả, thì người đầu tiên phải tôn vinh, phải là nhà thơ Vĩnh Mai.

Nhưng tôi nghĩ điều độc đáo của thơ Vĩnh Mai không phải là các sáng tác Người dân quân xã hay Mùa lúa mới mà là bài thơ Khóc Hoài. Trong các tác phẩm của các nhà thơ khu 4 trong thời 9 năm chống Pháp ta có thể thấy một số bài ngân vang thực tế đời sống nhân dân như Nhớ của Hồng Nguyên, Ngò cải đơm hoa hay Thăm Lúa của Trần Hữu Thung, đặc biệt là bài Gửi Người 95 của Hồ Vy. Nhưng đứng về mặt dung dị chưa có bài nào vượt qua bài Khóc Hoài của Vĩnh Mai. Những từ ngữ trần trụi như khoai sắn, không gợi một hình tượng gì có tính mỹ học mà đưa vào thơ thì thành thơ. Đó là các từ ngữ: mi tau, tau mi, mi mi tau tau trong bài thơ Khóc Hoài. Với bài thơ Khóc Hoài Vĩnh Mai đã mang vào nền thi ca Việt Nam hiện đại một phong cách, một mảng màu mới, độc đáo. Sự dung dị trong Khóc Hoài là đạt đến mức tột cùng. Có lẽ vì vậy nó đã đi vào thánh địa của thi ca chăng?

Hai chục năm trước đây, có một lần tôi đi qua Vĩnh Yên nhớ đến người thủ trưởng tài năng, đầy lòng nhân hậu và giàu cá tính và mấy câu thơ trong bài thơ của anh:

Mùa thu dừng lại ở Long Biên
Để một mình tôi lên Vĩnh Yên.

Nhớ bài thơ Lên Vĩnh Yên đượm bao tình anh và anh như còn đó. Mới biết nhà thơ mãi tươi xanh.

Hà Nội ngày 12-1-2009
P.H.D
(241/03-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.