RAPHAEN XÔLE (Cu Ba)
Khi con người mở mắt ra (nỗi sợ hãi đã buộc chúng khép lại), thì việc đầu tiên mà anh ta trông thấy là cái hố có đường kính hai mét và một vòng tròn nhỏ màu xanh nằm cao chừng mười mét ở phía trên.
Minh họa: Ngọc Thảo Nguyên
Anh ta động đậy tay và chân để xem chúng có bị gãy dập gì không, và tin rằng mình không việc gì cả. Lúc đó anh ta nói với mình: "Hugô, mi bị sa xuống hố rồi đấy. Mi gặp may quá thôi: mi chẳng hề bị gãy chân tay gì cả. Giờ thì có thể yên tâm được rồi!"
Anh ta nhổm người dậy chậm chạp đến kỳ lạ. Anh thấy hơi đau ở lưng, và điều đó khiến anh kinh ngạc: thật hiếm khi ngã lăn xuống từ chiều cao mười mét mà lại không bị xây xước gì cả.
Hố hình như do máy đào: máy không chỉ tạo ra một giếng hình tròn lý tưởng, mà còn mài nhẵn thính các bức tường. Con người chạm tay vào tường - hóa ra tường rất mềm, như sét ẩm pha cát: anh quyết định là có thể đào trong tường một chiếc cầu thang bằng những hố khoét, để qua đó leo lên trên. Khi đánh giá việc đào những lỗ khoét này là hệ trọng đến thế nào đối với anh (chả là anh chỉ có thể trông chờ vào chính sức mình, điều đó, và chỉ có điều đó mới mở ra con đường giải thoát cho anh), anh lại ngồi phệt xuống đáy hố, khắp người phủ một lớp bụi vàng vàng và ngoái nhìn xung quanh. Mùi đất sét phả ra một cách dễ chịu. Có lẽ, anh đã ngã xuống một chiếc giếng đã kiệt mạch nước. Anh thế là gặp may rồi, nếu không thì đã phải bơi suốt, phải cố gắng để giữ mình nổi được trên mặt nước rồi.
Ở bên trên, trong cái khung trời màu xanh, hiện ra một mảng mây trắng muốt, và con người chúi mình về một phía để thấy được nó toàn diện. Anh đã không thấy được, song anh hiểu rằng chính vì các đám mây này mà anh đã bị sa xuống hố, chỉ vì cố gắng rút ngắn đường về nhà, anh đã đi tắt theo lối mà anh chưa bao giờ từng đi.
- Đồ ngốc!- anh thốt ra thành tiếng.
Sau đó anh sực nhớ ra là anh không được mất bình tĩnh, và để trấn an, anh bắt đầu lục tìm trong túi một vật cứng gì đó có thể đào đất được. Anh lấy ra những giấy tờ khác nhau: giấy phép đi săn, tờ liệt kê đồ mua sắm mà Êlêna đã giao phó cho anh... Anh không cố nhìn kỹ xem trước mặt anh là những giấy tờ gì. Anh gấp những chứng từ được bọc ni lông lại: chúng không thể dùng vào việc được. Anh chậm rãi đặt tất cả những vật không cần thiết này về chỗ cũ.
Thoạt tiên anh nghĩ đến đôi giày, sau đó tới chiếc khóa cài rộng bản trên chiếc thắt lưng. Anh nói với mình rằng với một chiếc móc khóa như thế thì chẳng được việc gì mà anh phải làm hỏng đôi giày để đào đất sét ẩm cả. Anh từ từ tháo thắt lưng ra và dùng răng - cấu những mắt chỉ khâu ở chỗ gấp mép thắt lưng mà chiếc khóa bằng kim loại được chốt chặt vào. Tháo được một chiếc khóa ra xong, anh liền cuộn chiếc thắt lưng lại và nhét nó vào túi quần.
Con người thở hắt ra một cái, đứng dậy, bước ba bước đến mảng tường đứng trước mặt anh khi anh ngồi dưới đất, và đào lỗ đầu tiên ở chỗ cao ngang đầu gối mình. Hóa ra, việc đó cũng chẳng khó khăn gì lắm. Với hai tấm ván đủ chắc để giữ nổi trọng lượng cơ thể anh, thì chỉ cần cố gắng hai lần là có thể thoát ra khỏi đây được.
Đất ở lỗ thứ ba bị tụt xuống, và anh khi sa xuống dưới đáy. Lần ngã đầu tiên này khiến anh sợ, song anh lại cười, cố gắng bắt mình phải bình tĩnh làm việc y như trước. Anh ngả ngửa đằng lưng và không đứng dậy ngay được. Anh thoáng nghĩ tới những cuốn sách anh mua trong xóm và đánh rơi ở mép hố cùng với những đồ vật khác; giá lúc này chúng còn ở bên anh, anh thậm chí có thể lấy đọc. Anh cũng sực nhớ là đã mang truyện cổ tích về cho các con, và ý nghĩ về các con đã buộc anh phải đứng bật dậy và tìm kiếm mảng tường nào có đất sét chắc hơn và ít pha cát hơn. Anh có cảm giác rằng anh đã tìm thấy chỗ đó, và anh lại bắt đầu xây dựng con đường giải thoát của mình.
Lúc leo lên phía trên, anh không nghĩ ngợi điều gì cả. Trước mắt anh chỉ toàn một thứ đất sét vàng bao vây tứ phía. Anh nghe thấy tiếng thở gấp của mình, tiếng rin rít của chiếc khóa cắm vào đất sét và tiếng đất sét rơi xuống đáy hố lộp bộp.
Anh lại ngã xuống, song đã từ độ cao ba mét. Ở dưới đáy anh như hóa điên lên vào một lúc nào đó, và anh cắn môi. Anh nói với mình: "Không được nản lòng, Hugô ạ. Điều đó có thể gây phương hại cho công việc. Hãy bình tĩnh lại đi!"
Và lần nầy anh không vội trèo lên ngay. Anh ngồi và ngắm nhìn những đấm cỏ mọc quanh mép hố! Anh quờ quạng xung quanh và tìm được mấy cọng.
Anh nhét một cọng vào miệng nhai, cảm thấy vị ngọt của nó, và điều đó giúp anh tĩnh tâm lại.
Giờ mà có cơn mưa mới thật là đúng lúc! Nếu có mưa và nước mưa ngập giếng, thì anh có thể nổi lên được trên mặt. Song cái hố mới thật rộng và sâu. Phải có một cơn mưa rào mà từ thuở cha sinh mẹ đẻ ra anh cũng chưa một lần được chứng kiến.
Con người không tin thượng đế, song lúc đó anh lại thấy nghi ngờ. Anh đã toan thốt lên: "Lạy chúa..." - song anh lại im lặng.
- Sao cái đầu mình chẳng nảy ra được sáng kiến nào nhỉ, - anh nói vẻ không hài lòng mình. - Thế ngộ nhỡ mưa rào cũng chẳng được tích sự gì thì sao?
Phía trên cao mặt trời từ một góc hắt nắng xuống thành hố, để lại trên đó một đường viền lấp lánh hình chiếc móng tay. Có lẽ, trên bầu trời xanh mặt trời phải chiếu sáng rực rỡ và dữ dội lắm. Và chỉ có trời mới biết được là mặt đất trên những con đường đã biến thành bụi từ bao lâu trước đây và sẽ còn tiếp tục như thế bao lâu nữa.
- Không thể có mưa được, - Con người nói trong lúc đứng dậy.
Anh lại bắt đầu leo lên phía trên, đồng thời sử dụng những lỗ đã khoét từ trước. Anh đặt chân cẩn thận, anh nhét chân làm sao có thể sâu hơn vào lỗ bị lở và cố gắng vượt qua những chỗ nguy hiểm nhanh hơn, và cứ thế anh đã có thể vượt qua được thêm ba mét.
Anh dừng lại. Hơi thở trở nên dồn gấp. Cả người anh ướt sũng vì mồ hôi. Giá giờ mà có sợi dây với cái móc ở đầu thì đến gì anh cũng đánh đổi! Anh sẽ tung sợi dây lên phía trên, cái móc sẽ móc chặt vào một vật gì đó, và anh sẽ leo lên được ra ngoài, sau đó thu dọn hành trang, mang chúng về nhà và ngay tối nay anh đã có thể đọc một trong những cuốn sách đã mua, chốc chốc lại đưa chúng lên gần mặt để cảm thấy trọn vẹn hơn mùi vị của cuốn sách mới.
Đúng lúc đó chiếc bậc thang nằm ngang tầm mặt anh mà anh dùng tay bấu vào đó bị lỡ. Con người giật giật trên không, cố gắng khỏi bị ngã ngửa. Anh biết rằng sáu mét độ sâu hoàn toàn đủ để tan xác ra thật sự, nếu như ngã xuống đằng lưng.
Khi nằm dưới hố, anh nói với mình rằng anh đã ngã rất đẹp, hoàn toàn như một diễn viên nhào lộn. Anh rất mừng là anh không hề bị thương tích gì cả, một mặt đó là nhờ cú rơi may mắn, mặt khác - do đất sét mềm.
Anh nghĩ, giá anh có cái cuốc chim hay cái xẻng, anh có thể nhẫn nại chịu đựng và dựng một chiếc cầu thang hình xoáy ốc tuyệt diệu. Khi về nhà, anh sẽ kể cho Êlêna và các con nghe tất những chuyện đó. Anh sẽ kể cho họ nghe tất cả, tất cả những cú rơi ngã, lần lượt từng chuyện một.
Hài lòng với chí cương quyết của bản thân, anh lại bắt đầu đào và lần này anh lên cao được tám mét. Anh dừng lại ở đây, vì nhận thấy lớp đất sét đã hết và bắt đầu một lớp đất khô lẫn sỏi đá nhỏ sắc, nhưng chắc chắn hơn nhiều. Để khoét được một hố sâu trong đó, anh cần phải tiêu tốn số thời gian nhiều hơn gấp ba. Tay anh bị thương chảy máu, bởi vì chiếc khóa quá nhỏ, và để làm việc nhanh hơn anh huy động cả những ngón tay ra giúp mình. Anh ngẩng đầu lên. Nó kia rồi, lối thoát, nó đã ở ngay trước mắt anh, hoàn toàn chỉ cần đưa tay ra là với tới được. Những cọng cỏ hệt như những cành cây bụ bẫm, chúng mới thật sát gần.
Được chiến thắng khích lệ (mà vì nó thậm chí cơn đau ở tay cũng trở nên dễ chịu), con người quên khuấy mất rằng chân anh vẫn đang còn đặt trên lớp đất mềm, và anh đã khinh xuất xê xích chúng chỉ cốt để được đứng thoải mái hơn, - đất sét đã chảy xệ ra. Với đôi tay mệt rã rời và bị thương anh không thể giữ được cân bằng cơ thể vào đúng cái khoảnh khắc cần thiết để đi tìm một điểm tựa mới. Anh đã ngã xuống, bị thất bại hoàn toàn. Anh có cảm giác rằng anh bị lừa dối. Với tất cả trọng lượng cơ thể mình anh ngã quật xuống bên chân phải.
Cảm thấy đau dưới đầu gối, anh cho rằng anh bị gãy chân. Anh thử cử động chân phải, song chẳng thu được kết quả gì, mà cơn đau lại tăng thêm. Anh thử như thế để cốt vì tò mò muốn biết toàn bộ mức độ nỗi bất hạnh của mình. Những giọt nước mắt trào ra khỏi mắt anh. Anh nghiến chặt răng lại và những bắp thịt trên mặt anh căng cứng ra.
Anh hiểu là cần phải kêu cứu. Bây giờ thì chỉ có tiếng kêu cứu mới giải thoát được anh thôi. Tuy nhiên sao lại ngu xuẩn thế nhỉ, tại sao anh lại không kêu cứu ngay từ đầu? "Cứu tôi với" và "Hãy cứu tôi với" - hai câu này anh chỉ bắt gặp trong các cuốn sách và bây giờ anh không thể phát âm chúng lên thành tiếng một cách đủ sức thuyết phục. Anh kêu tên vợ mình đến nổ cổ họng. Việc đó mang lại cho anh sự nhẹ nhõm. Nó biến thành một cái gì đó giống như tiếng kêu đớn đau. Và ngay lúc đó trong anh bỗng xuất hiện một niềm tin kỳ lạ: người vợ ngay lúc này sẽ hiện ra. Nàng sẽ cúi xuống trên miệng hố và hỏi: "Anh làm sao thế, Hugô?" Anh không muốn bị thất vọng về điều đó, và anh đợi một lúc trước khi lại kêu lên.
Niềm hy vọng đã bỏ đi khi anh kêu lên lần thứ ba. Làm thế nào mà vợ anh đến được bây giờ? Bao cây số đường trường ngăn cách nhà với anh? Không ít hơn ba cây số. Ba cây số là một khoảng cách lớn. Lớn vô cùng. Song anh vẫn tiếp tục kêu tên vợ hết lần này tới lần khác. Có thể, gần đâu đây có ngôi nhà nào đó? Anh không thể nhớ lại được những gì anh đã trông thấy ngoài tự do. Chả là anh vẫn có thói quen đi mà mắt vẫn nhìn xuống dưới chân mình, còn trước khi ngã xuống - anh đã nhìn lên đám mây hình vụ nổ hạt nhân. Vì thế anh chỉ có thể hình dung thấy một vùng đồng bằng bát ngát, rộng lớn mênh mông được trải một lớp thảm cỏ.
Những tiếng kêu của anh vẫn vang lên như những tiếng rống đau đớn hơn là lời cầu cứu như trước.
Bỗng con người phát hiện ra là mình đã mất giọng, và điều đó đối với anh là một điều gì đó giống như một cú ngã mới, và không ai nghe thấy tiếng kêu cuối cùng của anh. Không ai đến giúp anh. Anh bật khóc mà không hề ngượng nghịu. Anh khóc một phần vì việc anh phải lâm vào một hoàn cảnh như thế. Một lúc lâu sau anh mới có thể trấn tĩnh lại được. Dường như có ai cưỡng bức anh, anh bắt đầu ngẫm nghĩ lại những điều anh đã suy nghĩ trước đây: cuộc sống thật vô nghĩa lý, thật vô tích sự. Anh đã sống qua ba mươi bảy năm của cuộc đời mình để làm gì? Anh cố gắng trả lời câu hỏi này nhằm át đi cơn đau buồn: "Mình đã có con". Con cái là niềm sướng vui lớn lao nhất của anh, song lần này, khi nghĩ đến chúng, anh đã không mỉm cười. Anh cảm thấy cái "mình đã có con" này chưa bao giờ là câu trả lời thực sự cho câu hỏi.
- Thế thì sao nào? - anh hỏi thành tiếng. - Thế thì chúng sẽ sống vì cái gì?
Anh nhìn dòng máu chảy trên đôi tay bị thương của anh, và nói một cách khinh mạn:
- Để sống.
Con người nheo mắt lại và nghiến răng. Tưởng như anh kẹp những ý nghĩ của mình vào một gọng kìm. Cuộc sống thật là vô nghĩa, vô tích sự. Trong đó đầy rẫy những chuyện tương tự như chuyện đang xảy ra với anh vào lúc này. Và anh phóng mắt nhìn quanh chiếc giếng bằng cặp mắt trợn trừng trừng ngầu máu.
Tại một góc xa thẳm của ý thức anh, nỗi sợ chết vẫn tiếp tục sống. "Mi ăn để mi có thể tiêu phí năng lượng. Mi ăn, để phục hồi năng lượng. Mi ăn, để mi có thể làm việc. Mi hãy làm việc, để mi có thể ăn. Mi ăn và sản sinh con cái. Mi ăn, để mi có thể cười được, bởi vì khi cười, mi tiêu phí số năng lượng mà mi cần phải bù đắp. Và con cái mi cũng sẽ ăn và tiêu phí năng lượng. Ăn và bù đắp năng lượng..."
- Để làm gì? - Anh hỏi bằng giọng đã lạc hẳn.
Anh đã sống qua ba mươi bảy năm. Tất cả đều bình thường. Nếu cần, anh có thể hồi nhớ lại vào những phút ngắn ngủi nhất tất cả những sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời mình. Hoặc thậm chí vào cả những giây ngắn ngủi, và tất cả những gì còn lại từ cuộc đời đó cũng bình thường. Có thể, thậm chí không đến được ba mươi bảy năm. Còn nếu như sớm hơn thì anh sẽ trở thành một lão già vô dụng. Và tất nhiên, sẽ chết. Và với con cái anh cũng sẽ xảy ra cái điều y như vậy. Chính xác y như vậy.
"Đó cũng là một cuộc đời", - anh nghĩ.
Việc gì mình phải leo lên trên, nếu như rút cục mình vẫn cứ phải ngã lộn xuống? Thật nực cười thay!" Anh mỉm cười, và có thể là vì nỗi đau ở chân hay vì những suy tưởng buồn chán mà mặt anh có cái vẻ cay đắng.
Ngay lúc đó anh phát hiện thấy trên mặt đất sét, ở trước mặt mình ở độ cao chừng mét rưỡi, một sinh vật nhỏ màu đen đang bò lên trên. Đó là con kiến, và anh đã nghĩ là anh cuốn nó theo xuống đây, khi bị ngã. Chân của con côn trùng vẫn còn nguyên vẹn, và nó chẳng có khó khăn lớn nào mới đưa được tấm thân nhỏ nhoi của mình lên phía trên. Con côn trùng sẽ sống, trong khi anh, một con người, sẽ chết. Trong mắt anh con kiến bỗng biến thành một cái gì đó có ý nghĩa quan trọng, và anh thú vị theo dõi những chuyển động của nó. Anh muốn giết chết con kiến. Sau đó anh quyết định hất nó xuống đáy hố bằng cách thổi vào người nó, và nhìn xem nó sẽ lại bò lên trên ra sao và lại thổi hất nó trở lại. Hay tốt hơn hết là cứ để mặc cho nó bò - Và chúc cho nó thoát ra được tự do thành công?
"Chúc thành công" - anh nhắc lại trong tâm tưởng và "hừm" một tiếng. Anh đứng dậy trên chân trái, anh nhảy tới chỗ con kiến và đợi cho đến khi nó bò lên được một gang tay, sau đó anh tóm lấy con côn trùng bằng ngón tay cái và ngón trỏ, anh nhìn nó quẩy quẩy chân và rất chậm chạp anh bắt đầu ép chặt tấm thân nhỏ nhoi trong lúc chưa nghe thấy tiếng nổ đánh tách một cái khẽ khàng. Anh vo tròn thân hình con kiến thành một viên bi nhỏ và ném xuống đáy hố. "Đó cũng là một cuộc đời, - anh nghĩ. - Một phần giây bất tận trước khi chết". Xong ngay lúc đó anh liền nói với mình rằng anh đã phạm phải một điều tàn bạo. Anh đã ghen tỵ với con kiến... Một nỗi buồn kỳ lạ xâm chiếm hồn anh.
Anh nhìn lên trên và trông thấy một mảng vàng ối của đám mây hẹp. Anh biết rằng trời đã về chiều, và lúc đó dường như nhận được bức thông điệp bí mật, anh đã nhớ lại được tất cả những gì ở trên đó, phía trên mặt đất. Bên phải là dãy đồi thấp mọc đầy cỏ với những quả cầu xanh của những vòm lá cây thưa thớt rãi rác đây đó. Phía trước mặt là một dãy hàng rào bằng cành cây, những cành cây đâm rễ và trổ đầy cành lá. Bên trái là một rừng xoài nhỏ.
Bầu trời lúc này có lẽ phủ đầy mây giống như đám mây đó. Đã có thể nhìn thẳng vào mặt trời. Trên mỗi lùm cây trên các ngọn đồi, trên mỗi chiếc lá của dãy hàng rào và trong rừng xoài đều phản chiếu một thứ ánh sáng vàng chói, và vạn vật đều lấp lánh lung linh. Mặt trời vẫn còn sưởi ấm. Bầu không khí ngùn ngụt bốc hơi lên giữa các ngọn đồi và rừng xoài và dần nguội đi như điều đó vẫn luôn xảy ra vào lúc chiều tối. Hơi nóng đó hòa lẫn với cái mát lạnh sẽ khiến anh phải rùng mình, trái tim đập dồn gấp, và nhất định anh sẽ cười phá lên.
Ngự trị trong đầu óc con người vẫn là mặt trời, còn bên trong cái vòng tròn hồng hồng đã xuất hiện bóng dáng hai đứa con trai anh. Chúng chạy đến với anh.
Anh không thể bằng cái giọng khản đặc của mình kêu to lên như anh hy vọng được. Từ cuống họng chỉ bật ra một tiếng rên than van rền rĩ mà anh cảm thấy như tiếng rống trước lúc chết của loài thú vật.
Song con người vẫn không ngả lòng. Anh tìm thấy chiếc móc mà anh đã quăng đi sau lần ngã cuối cùng của mình, anh nắm chặt nó trong tay và lê chiếc chân bị gãy tới lối cầu thang được thiết kế từ những lỗ khoét sâu - con đường duy nhất dẫn tới sự giải thoát mình.
TRẦN VIỆT CHÂU dịch
(Từ cuốn "Gió và chim". Matxcơva
NXB Thanh niên cận vệ. 1985)
(SH28/12-87)
FRANZ KAFKA
AMBROSE BIERCE
Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse.
L. TOLSTOY
Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.
THOMAS VINT
L.T.S: Thomas Vint người Estonia, năm nay 49 tuổi. Hiện ông viết văn và sống ở Estonia (Liên Xô). Ngoài khả năng viết văn xuôi, ông còn thích vẽ. Ông đã từng triển lãm tranh ở Pháp vào năm 1988. Ông cũng đã tự minh họa cho tập truyện ngắn đầu tiên của mình.
JOSHUA BROWN (Mỹ)
“Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”
RAY BRADBURY
Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.
Thomas Burke (1886 - 1945) sinh tại Clapham, ngoại ô thành phố Luân Đôn, nước Anh. Cha chết khi còn rất nhỏ, ông sống với người chú, sau được gởi vào một cô nhi viện.
JORGE LUIS BORGES
Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.
CLAUDE FARRÈRE
Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.
HERMANN HESSE
(Nhà văn Đức, Nobel văn học năm 1946)
Trước đây, một chàng trai trẻ có tên là Ziegler đã sống ở ngõ Brauer. Anh là một trong những người thường xuyên ngày nào cũng gặp chúng tôi ở trên đường phố và chưa bao giờ chúng tôi có thể ghi nhớ chính xác khuôn mặt của những người ấy, vì tất cả bọn họ cùng có khuôn mặt giống nhau: một khuôn mặt bình thường ở giữa đám đông.
Nhà văn Nenden Lilis A. sinh tại Malangbong-Garut (Tây Java) năm 1971, là giảng viên khoa Giáo dục và Văn chương tại Indonesian Education University ở Bandung.
Truyện ngắn và thơ của bà đã in trên nhiều ấn phẩm trong nước. Bà cũng thường được mời nói chuyện tại các hội nghị văn học cả ở trong nước và nước ngoài (như Malaysia, Hà Lan và Pháp). Thơ của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Hà Lan và Đức.
Truyện ngắn dưới đây được John H. McGlynn dịch từ tiếng Indonesia sang tiếng Anh.
ALEKSANDAR HEMON
Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy.
Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.
LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.
LTS: Giải thưởng danh giá Goncourt của văn chương Pháp năm 2015 với tác giả là nhà văn Mathias Enard do Nxb. Actes Sud (Pháp) xuất bản.
Sinh ở Manzanillo năm 1907, Loló de la Torriente sống ở Havana từ thuở nhỏ. Bà đóng một vai trò tích cực trong cuộc chiến đấu chống lại Machado và các chế độ ủng hộ đế quốc sau đó. Bà trở thành giáo viên và là một đảng viên của Đảng Cộng sản Cuba.
Michel Déon sinh năm 1919 tại Paris. Sau khi tốt nghiệp ngành Luật, ông tòng quân cho đến tháng 11 năm 1942. Ở lại vùng phía nam nước Pháp bị tạm chiếm, ông cộng tác với nhiều báo và tạp chí khác nhau.
LGT: Alissa York sinh tại Australia và lớn lên tại tỉnh bang Edmonton, Canada, và là tác giả của năm tác phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm bán chạy: The Naturalist, Fauna, Effigy, Mercy, Any Given Power. Cô nhận giải Bronwen Wallace Memorial Award vào năm 1999, và đã từng được đề cử giải văn chương danh giá Scotiabank Giller Prize.
LGT: “Cơn Giông” là một trong các tác phẩm Nabokov, văn hào Mỹ gốc Nga, viết trong thời kỳ ông còn sáng tác bằng tiếng Nga, và được đăng lần đầu trên báo Đỵíÿ (Hôm Nay) vào ngày 28 tháng 9 năm 1924. Sau này, nó được Dmitri Nabokov, con trai tác giả, dịch lại qua tiếng Anh và đăng trong một số tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Nabokov. Bản dịch dưới đây được dịch giả Thiên Lương, người từng dịch Lolita, thực hiện từ bản gốc tiếng Nga.