RAPHAEN XÔLE (Cu Ba)
Khi con người mở mắt ra (nỗi sợ hãi đã buộc chúng khép lại), thì việc đầu tiên mà anh ta trông thấy là cái hố có đường kính hai mét và một vòng tròn nhỏ màu xanh nằm cao chừng mười mét ở phía trên.
Minh họa: Ngọc Thảo Nguyên
Anh ta động đậy tay và chân để xem chúng có bị gãy dập gì không, và tin rằng mình không việc gì cả. Lúc đó anh ta nói với mình: "Hugô, mi bị sa xuống hố rồi đấy. Mi gặp may quá thôi: mi chẳng hề bị gãy chân tay gì cả. Giờ thì có thể yên tâm được rồi!"
Anh ta nhổm người dậy chậm chạp đến kỳ lạ. Anh thấy hơi đau ở lưng, và điều đó khiến anh kinh ngạc: thật hiếm khi ngã lăn xuống từ chiều cao mười mét mà lại không bị xây xước gì cả.
Hố hình như do máy đào: máy không chỉ tạo ra một giếng hình tròn lý tưởng, mà còn mài nhẵn thính các bức tường. Con người chạm tay vào tường - hóa ra tường rất mềm, như sét ẩm pha cát: anh quyết định là có thể đào trong tường một chiếc cầu thang bằng những hố khoét, để qua đó leo lên trên. Khi đánh giá việc đào những lỗ khoét này là hệ trọng đến thế nào đối với anh (chả là anh chỉ có thể trông chờ vào chính sức mình, điều đó, và chỉ có điều đó mới mở ra con đường giải thoát cho anh), anh lại ngồi phệt xuống đáy hố, khắp người phủ một lớp bụi vàng vàng và ngoái nhìn xung quanh. Mùi đất sét phả ra một cách dễ chịu. Có lẽ, anh đã ngã xuống một chiếc giếng đã kiệt mạch nước. Anh thế là gặp may rồi, nếu không thì đã phải bơi suốt, phải cố gắng để giữ mình nổi được trên mặt nước rồi.
Ở bên trên, trong cái khung trời màu xanh, hiện ra một mảng mây trắng muốt, và con người chúi mình về một phía để thấy được nó toàn diện. Anh đã không thấy được, song anh hiểu rằng chính vì các đám mây này mà anh đã bị sa xuống hố, chỉ vì cố gắng rút ngắn đường về nhà, anh đã đi tắt theo lối mà anh chưa bao giờ từng đi.
- Đồ ngốc!- anh thốt ra thành tiếng.
Sau đó anh sực nhớ ra là anh không được mất bình tĩnh, và để trấn an, anh bắt đầu lục tìm trong túi một vật cứng gì đó có thể đào đất được. Anh lấy ra những giấy tờ khác nhau: giấy phép đi săn, tờ liệt kê đồ mua sắm mà Êlêna đã giao phó cho anh... Anh không cố nhìn kỹ xem trước mặt anh là những giấy tờ gì. Anh gấp những chứng từ được bọc ni lông lại: chúng không thể dùng vào việc được. Anh chậm rãi đặt tất cả những vật không cần thiết này về chỗ cũ.
Thoạt tiên anh nghĩ đến đôi giày, sau đó tới chiếc khóa cài rộng bản trên chiếc thắt lưng. Anh nói với mình rằng với một chiếc móc khóa như thế thì chẳng được việc gì mà anh phải làm hỏng đôi giày để đào đất sét ẩm cả. Anh từ từ tháo thắt lưng ra và dùng răng - cấu những mắt chỉ khâu ở chỗ gấp mép thắt lưng mà chiếc khóa bằng kim loại được chốt chặt vào. Tháo được một chiếc khóa ra xong, anh liền cuộn chiếc thắt lưng lại và nhét nó vào túi quần.
Con người thở hắt ra một cái, đứng dậy, bước ba bước đến mảng tường đứng trước mặt anh khi anh ngồi dưới đất, và đào lỗ đầu tiên ở chỗ cao ngang đầu gối mình. Hóa ra, việc đó cũng chẳng khó khăn gì lắm. Với hai tấm ván đủ chắc để giữ nổi trọng lượng cơ thể anh, thì chỉ cần cố gắng hai lần là có thể thoát ra khỏi đây được.
Đất ở lỗ thứ ba bị tụt xuống, và anh khi sa xuống dưới đáy. Lần ngã đầu tiên này khiến anh sợ, song anh lại cười, cố gắng bắt mình phải bình tĩnh làm việc y như trước. Anh ngả ngửa đằng lưng và không đứng dậy ngay được. Anh thoáng nghĩ tới những cuốn sách anh mua trong xóm và đánh rơi ở mép hố cùng với những đồ vật khác; giá lúc này chúng còn ở bên anh, anh thậm chí có thể lấy đọc. Anh cũng sực nhớ là đã mang truyện cổ tích về cho các con, và ý nghĩ về các con đã buộc anh phải đứng bật dậy và tìm kiếm mảng tường nào có đất sét chắc hơn và ít pha cát hơn. Anh có cảm giác rằng anh đã tìm thấy chỗ đó, và anh lại bắt đầu xây dựng con đường giải thoát của mình.
Lúc leo lên phía trên, anh không nghĩ ngợi điều gì cả. Trước mắt anh chỉ toàn một thứ đất sét vàng bao vây tứ phía. Anh nghe thấy tiếng thở gấp của mình, tiếng rin rít của chiếc khóa cắm vào đất sét và tiếng đất sét rơi xuống đáy hố lộp bộp.
Anh lại ngã xuống, song đã từ độ cao ba mét. Ở dưới đáy anh như hóa điên lên vào một lúc nào đó, và anh cắn môi. Anh nói với mình: "Không được nản lòng, Hugô ạ. Điều đó có thể gây phương hại cho công việc. Hãy bình tĩnh lại đi!"
Và lần nầy anh không vội trèo lên ngay. Anh ngồi và ngắm nhìn những đấm cỏ mọc quanh mép hố! Anh quờ quạng xung quanh và tìm được mấy cọng.
Anh nhét một cọng vào miệng nhai, cảm thấy vị ngọt của nó, và điều đó giúp anh tĩnh tâm lại.
Giờ mà có cơn mưa mới thật là đúng lúc! Nếu có mưa và nước mưa ngập giếng, thì anh có thể nổi lên được trên mặt. Song cái hố mới thật rộng và sâu. Phải có một cơn mưa rào mà từ thuở cha sinh mẹ đẻ ra anh cũng chưa một lần được chứng kiến.
Con người không tin thượng đế, song lúc đó anh lại thấy nghi ngờ. Anh đã toan thốt lên: "Lạy chúa..." - song anh lại im lặng.
- Sao cái đầu mình chẳng nảy ra được sáng kiến nào nhỉ, - anh nói vẻ không hài lòng mình. - Thế ngộ nhỡ mưa rào cũng chẳng được tích sự gì thì sao?
Phía trên cao mặt trời từ một góc hắt nắng xuống thành hố, để lại trên đó một đường viền lấp lánh hình chiếc móng tay. Có lẽ, trên bầu trời xanh mặt trời phải chiếu sáng rực rỡ và dữ dội lắm. Và chỉ có trời mới biết được là mặt đất trên những con đường đã biến thành bụi từ bao lâu trước đây và sẽ còn tiếp tục như thế bao lâu nữa.
- Không thể có mưa được, - Con người nói trong lúc đứng dậy.
Anh lại bắt đầu leo lên phía trên, đồng thời sử dụng những lỗ đã khoét từ trước. Anh đặt chân cẩn thận, anh nhét chân làm sao có thể sâu hơn vào lỗ bị lở và cố gắng vượt qua những chỗ nguy hiểm nhanh hơn, và cứ thế anh đã có thể vượt qua được thêm ba mét.
Anh dừng lại. Hơi thở trở nên dồn gấp. Cả người anh ướt sũng vì mồ hôi. Giá giờ mà có sợi dây với cái móc ở đầu thì đến gì anh cũng đánh đổi! Anh sẽ tung sợi dây lên phía trên, cái móc sẽ móc chặt vào một vật gì đó, và anh sẽ leo lên được ra ngoài, sau đó thu dọn hành trang, mang chúng về nhà và ngay tối nay anh đã có thể đọc một trong những cuốn sách đã mua, chốc chốc lại đưa chúng lên gần mặt để cảm thấy trọn vẹn hơn mùi vị của cuốn sách mới.
Đúng lúc đó chiếc bậc thang nằm ngang tầm mặt anh mà anh dùng tay bấu vào đó bị lỡ. Con người giật giật trên không, cố gắng khỏi bị ngã ngửa. Anh biết rằng sáu mét độ sâu hoàn toàn đủ để tan xác ra thật sự, nếu như ngã xuống đằng lưng.
Khi nằm dưới hố, anh nói với mình rằng anh đã ngã rất đẹp, hoàn toàn như một diễn viên nhào lộn. Anh rất mừng là anh không hề bị thương tích gì cả, một mặt đó là nhờ cú rơi may mắn, mặt khác - do đất sét mềm.
Anh nghĩ, giá anh có cái cuốc chim hay cái xẻng, anh có thể nhẫn nại chịu đựng và dựng một chiếc cầu thang hình xoáy ốc tuyệt diệu. Khi về nhà, anh sẽ kể cho Êlêna và các con nghe tất những chuyện đó. Anh sẽ kể cho họ nghe tất cả, tất cả những cú rơi ngã, lần lượt từng chuyện một.
Hài lòng với chí cương quyết của bản thân, anh lại bắt đầu đào và lần này anh lên cao được tám mét. Anh dừng lại ở đây, vì nhận thấy lớp đất sét đã hết và bắt đầu một lớp đất khô lẫn sỏi đá nhỏ sắc, nhưng chắc chắn hơn nhiều. Để khoét được một hố sâu trong đó, anh cần phải tiêu tốn số thời gian nhiều hơn gấp ba. Tay anh bị thương chảy máu, bởi vì chiếc khóa quá nhỏ, và để làm việc nhanh hơn anh huy động cả những ngón tay ra giúp mình. Anh ngẩng đầu lên. Nó kia rồi, lối thoát, nó đã ở ngay trước mắt anh, hoàn toàn chỉ cần đưa tay ra là với tới được. Những cọng cỏ hệt như những cành cây bụ bẫm, chúng mới thật sát gần.
Được chiến thắng khích lệ (mà vì nó thậm chí cơn đau ở tay cũng trở nên dễ chịu), con người quên khuấy mất rằng chân anh vẫn đang còn đặt trên lớp đất mềm, và anh đã khinh xuất xê xích chúng chỉ cốt để được đứng thoải mái hơn, - đất sét đã chảy xệ ra. Với đôi tay mệt rã rời và bị thương anh không thể giữ được cân bằng cơ thể vào đúng cái khoảnh khắc cần thiết để đi tìm một điểm tựa mới. Anh đã ngã xuống, bị thất bại hoàn toàn. Anh có cảm giác rằng anh bị lừa dối. Với tất cả trọng lượng cơ thể mình anh ngã quật xuống bên chân phải.
Cảm thấy đau dưới đầu gối, anh cho rằng anh bị gãy chân. Anh thử cử động chân phải, song chẳng thu được kết quả gì, mà cơn đau lại tăng thêm. Anh thử như thế để cốt vì tò mò muốn biết toàn bộ mức độ nỗi bất hạnh của mình. Những giọt nước mắt trào ra khỏi mắt anh. Anh nghiến chặt răng lại và những bắp thịt trên mặt anh căng cứng ra.
Anh hiểu là cần phải kêu cứu. Bây giờ thì chỉ có tiếng kêu cứu mới giải thoát được anh thôi. Tuy nhiên sao lại ngu xuẩn thế nhỉ, tại sao anh lại không kêu cứu ngay từ đầu? "Cứu tôi với" và "Hãy cứu tôi với" - hai câu này anh chỉ bắt gặp trong các cuốn sách và bây giờ anh không thể phát âm chúng lên thành tiếng một cách đủ sức thuyết phục. Anh kêu tên vợ mình đến nổ cổ họng. Việc đó mang lại cho anh sự nhẹ nhõm. Nó biến thành một cái gì đó giống như tiếng kêu đớn đau. Và ngay lúc đó trong anh bỗng xuất hiện một niềm tin kỳ lạ: người vợ ngay lúc này sẽ hiện ra. Nàng sẽ cúi xuống trên miệng hố và hỏi: "Anh làm sao thế, Hugô?" Anh không muốn bị thất vọng về điều đó, và anh đợi một lúc trước khi lại kêu lên.
Niềm hy vọng đã bỏ đi khi anh kêu lên lần thứ ba. Làm thế nào mà vợ anh đến được bây giờ? Bao cây số đường trường ngăn cách nhà với anh? Không ít hơn ba cây số. Ba cây số là một khoảng cách lớn. Lớn vô cùng. Song anh vẫn tiếp tục kêu tên vợ hết lần này tới lần khác. Có thể, gần đâu đây có ngôi nhà nào đó? Anh không thể nhớ lại được những gì anh đã trông thấy ngoài tự do. Chả là anh vẫn có thói quen đi mà mắt vẫn nhìn xuống dưới chân mình, còn trước khi ngã xuống - anh đã nhìn lên đám mây hình vụ nổ hạt nhân. Vì thế anh chỉ có thể hình dung thấy một vùng đồng bằng bát ngát, rộng lớn mênh mông được trải một lớp thảm cỏ.
Những tiếng kêu của anh vẫn vang lên như những tiếng rống đau đớn hơn là lời cầu cứu như trước.
Bỗng con người phát hiện ra là mình đã mất giọng, và điều đó đối với anh là một điều gì đó giống như một cú ngã mới, và không ai nghe thấy tiếng kêu cuối cùng của anh. Không ai đến giúp anh. Anh bật khóc mà không hề ngượng nghịu. Anh khóc một phần vì việc anh phải lâm vào một hoàn cảnh như thế. Một lúc lâu sau anh mới có thể trấn tĩnh lại được. Dường như có ai cưỡng bức anh, anh bắt đầu ngẫm nghĩ lại những điều anh đã suy nghĩ trước đây: cuộc sống thật vô nghĩa lý, thật vô tích sự. Anh đã sống qua ba mươi bảy năm của cuộc đời mình để làm gì? Anh cố gắng trả lời câu hỏi này nhằm át đi cơn đau buồn: "Mình đã có con". Con cái là niềm sướng vui lớn lao nhất của anh, song lần này, khi nghĩ đến chúng, anh đã không mỉm cười. Anh cảm thấy cái "mình đã có con" này chưa bao giờ là câu trả lời thực sự cho câu hỏi.
- Thế thì sao nào? - anh hỏi thành tiếng. - Thế thì chúng sẽ sống vì cái gì?
Anh nhìn dòng máu chảy trên đôi tay bị thương của anh, và nói một cách khinh mạn:
- Để sống.
Con người nheo mắt lại và nghiến răng. Tưởng như anh kẹp những ý nghĩ của mình vào một gọng kìm. Cuộc sống thật là vô nghĩa, vô tích sự. Trong đó đầy rẫy những chuyện tương tự như chuyện đang xảy ra với anh vào lúc này. Và anh phóng mắt nhìn quanh chiếc giếng bằng cặp mắt trợn trừng trừng ngầu máu.
Tại một góc xa thẳm của ý thức anh, nỗi sợ chết vẫn tiếp tục sống. "Mi ăn để mi có thể tiêu phí năng lượng. Mi ăn, để phục hồi năng lượng. Mi ăn, để mi có thể làm việc. Mi hãy làm việc, để mi có thể ăn. Mi ăn và sản sinh con cái. Mi ăn, để mi có thể cười được, bởi vì khi cười, mi tiêu phí số năng lượng mà mi cần phải bù đắp. Và con cái mi cũng sẽ ăn và tiêu phí năng lượng. Ăn và bù đắp năng lượng..."
- Để làm gì? - Anh hỏi bằng giọng đã lạc hẳn.
Anh đã sống qua ba mươi bảy năm. Tất cả đều bình thường. Nếu cần, anh có thể hồi nhớ lại vào những phút ngắn ngủi nhất tất cả những sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời mình. Hoặc thậm chí vào cả những giây ngắn ngủi, và tất cả những gì còn lại từ cuộc đời đó cũng bình thường. Có thể, thậm chí không đến được ba mươi bảy năm. Còn nếu như sớm hơn thì anh sẽ trở thành một lão già vô dụng. Và tất nhiên, sẽ chết. Và với con cái anh cũng sẽ xảy ra cái điều y như vậy. Chính xác y như vậy.
"Đó cũng là một cuộc đời", - anh nghĩ.
Việc gì mình phải leo lên trên, nếu như rút cục mình vẫn cứ phải ngã lộn xuống? Thật nực cười thay!" Anh mỉm cười, và có thể là vì nỗi đau ở chân hay vì những suy tưởng buồn chán mà mặt anh có cái vẻ cay đắng.
Ngay lúc đó anh phát hiện thấy trên mặt đất sét, ở trước mặt mình ở độ cao chừng mét rưỡi, một sinh vật nhỏ màu đen đang bò lên trên. Đó là con kiến, và anh đã nghĩ là anh cuốn nó theo xuống đây, khi bị ngã. Chân của con côn trùng vẫn còn nguyên vẹn, và nó chẳng có khó khăn lớn nào mới đưa được tấm thân nhỏ nhoi của mình lên phía trên. Con côn trùng sẽ sống, trong khi anh, một con người, sẽ chết. Trong mắt anh con kiến bỗng biến thành một cái gì đó có ý nghĩa quan trọng, và anh thú vị theo dõi những chuyển động của nó. Anh muốn giết chết con kiến. Sau đó anh quyết định hất nó xuống đáy hố bằng cách thổi vào người nó, và nhìn xem nó sẽ lại bò lên trên ra sao và lại thổi hất nó trở lại. Hay tốt hơn hết là cứ để mặc cho nó bò - Và chúc cho nó thoát ra được tự do thành công?
"Chúc thành công" - anh nhắc lại trong tâm tưởng và "hừm" một tiếng. Anh đứng dậy trên chân trái, anh nhảy tới chỗ con kiến và đợi cho đến khi nó bò lên được một gang tay, sau đó anh tóm lấy con côn trùng bằng ngón tay cái và ngón trỏ, anh nhìn nó quẩy quẩy chân và rất chậm chạp anh bắt đầu ép chặt tấm thân nhỏ nhoi trong lúc chưa nghe thấy tiếng nổ đánh tách một cái khẽ khàng. Anh vo tròn thân hình con kiến thành một viên bi nhỏ và ném xuống đáy hố. "Đó cũng là một cuộc đời, - anh nghĩ. - Một phần giây bất tận trước khi chết". Xong ngay lúc đó anh liền nói với mình rằng anh đã phạm phải một điều tàn bạo. Anh đã ghen tỵ với con kiến... Một nỗi buồn kỳ lạ xâm chiếm hồn anh.
Anh nhìn lên trên và trông thấy một mảng vàng ối của đám mây hẹp. Anh biết rằng trời đã về chiều, và lúc đó dường như nhận được bức thông điệp bí mật, anh đã nhớ lại được tất cả những gì ở trên đó, phía trên mặt đất. Bên phải là dãy đồi thấp mọc đầy cỏ với những quả cầu xanh của những vòm lá cây thưa thớt rãi rác đây đó. Phía trước mặt là một dãy hàng rào bằng cành cây, những cành cây đâm rễ và trổ đầy cành lá. Bên trái là một rừng xoài nhỏ.
Bầu trời lúc này có lẽ phủ đầy mây giống như đám mây đó. Đã có thể nhìn thẳng vào mặt trời. Trên mỗi lùm cây trên các ngọn đồi, trên mỗi chiếc lá của dãy hàng rào và trong rừng xoài đều phản chiếu một thứ ánh sáng vàng chói, và vạn vật đều lấp lánh lung linh. Mặt trời vẫn còn sưởi ấm. Bầu không khí ngùn ngụt bốc hơi lên giữa các ngọn đồi và rừng xoài và dần nguội đi như điều đó vẫn luôn xảy ra vào lúc chiều tối. Hơi nóng đó hòa lẫn với cái mát lạnh sẽ khiến anh phải rùng mình, trái tim đập dồn gấp, và nhất định anh sẽ cười phá lên.
Ngự trị trong đầu óc con người vẫn là mặt trời, còn bên trong cái vòng tròn hồng hồng đã xuất hiện bóng dáng hai đứa con trai anh. Chúng chạy đến với anh.
Anh không thể bằng cái giọng khản đặc của mình kêu to lên như anh hy vọng được. Từ cuống họng chỉ bật ra một tiếng rên than van rền rĩ mà anh cảm thấy như tiếng rống trước lúc chết của loài thú vật.
Song con người vẫn không ngả lòng. Anh tìm thấy chiếc móc mà anh đã quăng đi sau lần ngã cuối cùng của mình, anh nắm chặt nó trong tay và lê chiếc chân bị gãy tới lối cầu thang được thiết kế từ những lỗ khoét sâu - con đường duy nhất dẫn tới sự giải thoát mình.
TRẦN VIỆT CHÂU dịch
(Từ cuốn "Gió và chim". Matxcơva
NXB Thanh niên cận vệ. 1985)
(SH28/12-87)
OTTO STEIGER (THỤY SĨ)Ai cũng biết rằng cái tên Ruđenxơ tượng trưng cho sức mạnh và lòng dũng cảm, vậy mà nhân vật của chúng ta lại là một người nhút nhát. Có thể nói là từ lúc lọt lòng: mặc cho bác sĩ hầm hừ doạ nạt và bà đỡ cố công thúc đẩy, mãi ông chẳng chịu ra cho. Điều này để lại dấu vết trên diện mạo của ông. Khi rốt cuộc ông cũng được sinh ra và nhìn thấy thế gian buồn khổ này, trông ông xấu xí quá lắm, còn cái đầu thì rõ là chiếc bắp cải chứ không ngoa.
SLAWOMIR MROZEKSlawomir Mrozek sinh ngày 26 tháng 6 năm 1930, là nhà văn, kịch tác gia và hoạ sĩ tranh biếm hoạ nổi tiếng của Ba Lan. Năm 1953 tập truyện ngắn đầu tay của ông ra đời và bốn năm sau đó tập truyện Con voi được nhận giải thưởng của Tạp chí văn hoá.
ERNEST HEMINGWAYKhông ai có thể chỉ cho mọi người biết mình là thế nào rõ rệt hơn chính tôi làm việc đó. Không ai có thể giấu mình khỏi anh em đồng loại, bởi vì mỗi hành vi của con người, mỗi hành động của sáng tạo đều nói về tác giả của nó. Tôi kể hết cho mọi người biết mọi điều về tôi trong các cuốn sách của mình.
ANDRA NEYBURGA ()LGT: Nữ nhà văn Andra Neyburga sinh năm 1957. Tốt nghiệp Viện Hàn lâm Nghệ thuật Quốc gia Latvia, là người sáng lập tạp chí tiên phong của giới trẻ Latvia Mạch nguồn, chuyên viên tư vấn của Hội Nhà văn Latvia, phụ trách Hội tác giả trẻ (1987-1989). Tác phẩm của cô đã được dịch ra nhiều thứ tiếng Châu Âu như Đức, Anh, Pháp, Nga...
ENYO IOGY TESHANSKY ()(Truyện cổ - có thể cho cả người lớn đọc)Mơ thường trái hẳn với thực, chẳng phải vậy sao? Trong mơ những mong ước thiêng liêng nhất của chúng ta đều được thực hiện. Khi ta mơ thấy được vàng ấy là khi trong đời ta không một xu dính túi. Nói gọn lại, tương tự như ví dụ này, bạn có thể dễ dàng hình dung tình hình chính trị và xã hội của Xứ Mơ là thế nào.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)Tôi ngồi trong quán cà phê, cũ, vắng, và đang uống cốc nước chè của mình, bỗng tôi thấy có một vật mà ta có thể gọi là người tí hon đang đi ngang qua mặt bàn.
Mẹ tôi làm nghề phù thủy. Bà có thể chế thứ thuốc nước để làm sáng mắt hay để làm nóng dạ con. Bà biết cách thụt rửa âm đạo để có con trai như ý muốn hay chế một liều thuốc độc để tẩy những đứa trẻ không được mong muốn sinh ra. Ngoại trừ những lúc cấp bách, bà tự hái thuốc và lấy những phần thân thể động vật, tôi không được phép giúp bà.
LGT: Tác giả có cách dẫn dắt truyện bất ngờ, lôi cuốn nhờ chọn lựa một chi tiết vừa là nhan đề hay: “Cánh cửa sổ mở”. Từ đó trộn lẫn thực tại với ảo giác qua lời “bịa như thật” với lôgích tưởng tượng tuyệt vời. Điểm đặc sắc là cách xây dựng cấu trúc nhân vật theo kiểu thôi miên nạn nhân bị suy nhược thần kinh của một cô gái tinh nghịch có trí tưởng tượng bịa chuyện lạ kỳ.Chính việc lựa chọn điểm nhìn trần thật bên trong của nhân vật Framton dọc suốt 2/3 truyện với sự ngây thơ dễ tin của anh tạo nên một kết thúc bất ngờ hài hước. BỬU NAM giới thiệu
(tiếp theo phần 1)
Hanan Al Shaykh sinh ra trong một gia đình theo đạo Hồi ở Libăng. Bà lớn lên ở Beirut và sau đó học tại Cairo; là một phóng viên có tiếng ở Beirut và Cairo . Bà lấy chồng là một kỹ sư người Libăng theo đạo Thiên chúa giáo và có hai con. Từ năm 1982 do nội chiến nên họ chuyển tới sống ở London . Bà đã viết ba tiểu thuyết được hoan nghênh nồng nhiệt, Câu chuyện của Zahra, Những người đàn bà của cát và Myrrh. Truyện Myrrh đã được thời báo Publisher's Weekly chọn là một trong số 50 cuốn sách hay nhất năm 1992, và gần đây nhất bà xuất bản cuốn Những nữ học giả ở Beirut . Bà còn là tác giả của một số tập truyện ngắn.
- Coi nào, tạm biệt Jerry! Chăm sóc tốt bà chủ nhé. Phải vâng lời, đừng sủa bậy, đừng có hơi một tí là cáu nghe chưa. Tao sẽ báo cho mày khi nào tao về và mày phải chịu trách nhiệm cái nhà này khi tao vắng mặt đó.
Maisa thích những cái cây đó dù cô không biết chúng tên gì và cũng không tính xem chúng có bao nhiêu nữa. Các thân cây quyện vào nhau rồi lại tách ra, tán lá xoè xuống trải rộng trên mặt đất, những cái lá hình nón xào xạc trong cơn gió chiều.
LTS: Jhumpa Lahiri, sinh ở London trong một gia đình người Belgali (Ấn Độ), lớn lên ở đảo Rhode, hiện sống tại New York . Truyện “Người dịch bệnh” được rút từ tập truyện ngắn Interpreter of Maladies là tác phẩm đầu tay của cô, đã được giải Pulitzer 2000 cho thể loại truyện hư cấu, giải của báo New Yorker cho sách đầu tay hay nhất. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu.
1Anh trở về nhà dọc theo con phố của một thành phố nhỏ ở Czech, nơi anh đã mấy năm sống bình lặng, quen chịu những người hàng xóm hay chuyện và cảnh tục tằn đơn điệu tại công sở - anh bước đi không để ý gì xung quanh (như người ta đi trên con đường đã qua lại trăm lần) và suýt nữa thì ngang qua chị mà không biết.
“Chính anh đã cho em biết tình yêu là gì”. Herman Hesse
Ở miền Nam Thái Bình Dương xa xôi kia có hai hòn đảo nằm cạnh nhau tên là Nurabandi và Kiniwata.
Một truyện ngắn của nhà văn Mỹ, đoạt giải Nobel đầu tiên của nền văn học này vào năm 1930, nhà văn Sinclair Lewis, với truyện “Ông trẻ Axelbrod vào Đại học” do dịch giả và nhà nghiên cứu văn học Phan Quang Định dịch. Các bạn sẽ thưởng thức tài năng viết truyện ngắn của nhà văn này, bên cạnh tài năng viết tiểu thuyết của ông.