ĐẶNG BÁ TIẾN
"Đường về" - Ảnh: Đặng Văn Trân
Người đàn bà mang gùi
người đàn bà cúi mặt bước trong sương
trong khói đất quyện mùi phân bò và cỏ rác
gió lạnh từng cơn dữ dội
như muốn đẩy người đàn bà lăn xuống vệ đường
nhưng chiếc gùi nặng trên lưng
đã níu người đàn bà ở lại với con đường
cuối đông lấp ló nụ cười vàng của hoa dã quỳ
cho người đàn bà chút ấm lòng và bớt phần hiu quạnh
cái bóng đen cứ lầm lũi trên đường
những ngón chân xòe ra như rễ cây bám vào đất ba-zan kiên nhẫn
bình minh đã lên
nhưng ánh sáng bị lấp chìm trong hẻm núi
trong cuồn cuộn mây mù
và người đàn bà mặc kệ mây mù
bước chân theo thói quen trên con đường lam lũ như ngàn đời nay
tổ tiên người đàn bà đã bước
không có tiếng chim đ’rao, không có tiếng chim s’tiêng lảnh lót như ngày xưa
không có mùi hương hoa ê-pang, hoa sớc-khọt bay trong sương như ngày xưa
không có làn khói mỏng dan díu trên mái tranh như ngày xưa
chỉ có hoài niệm về rừng xưa, buôn xưa, tiếng chim xưa và làn
hương xưa chập chờn ẩn hiện làm niềm tin cho người đàn bà gắng sức bước
đường đi rẫy bây giờ xa tít tắp
một trăm lần hú chuyền nhau chưa đến được chỗ tỉa gieo
chiếc gùi nặng phân bò, phân heo và những túi hạt giống ám màu khói bếp
níu vai người đàn bà trĩu xuống
đè lưng người đàn bà như trái núi
khiến hai chân như đeo hai hòn đá tảng
và mồ hôi tuôn ra bết tóc, đẫm lưng, chảy xuống bàn chân đầm đìa đất đỏ
có thể ngày xưa trên đường này, người đàn bà đã hát, đã ngắt lá
làm kèn thổi gọi bạn trai, đã nhảy múa như con chim công trong nắng mai
nhưng bây giờ người đàn bà cứ lầm lũi bước
tiếng hát bây giờ có thể đã thành mồ hôi lạnh đầm đìa những ban mai như sáng nay
có thể đã chảy xuống ngón chân để người đàn bà bám chắc hơn vào mặt đường chống gió
có thể đã thành những nốt chai sần trên bàn tay, trên bàn chân và mòn rụng theo thời gian, theo nắng mưa, theo những nỗi nhọc nhằn đã lặn vào thịt da, đã ngâm tẩm số phận người đàn bà trong hồ rượu đắng, đánh chìm tiếng hát và điệu nhảy ngày xưa
vẫn chiếc gùi trên lưng
chiếc gùi tre
chiếc gùi tre bóng đen mồ hôi
cứ ngày ngày bám vào lưng người đàn bà Ê Đê, bám vào lưng
người đàn bà M’nông, bám vào lưng người đàn bà Gia rai như một phần thân thể họ
tôi biết trong chiếc gùi
có giấc mơ, nụ cười của đứa con mỗi chiều ngồi trên cầu thang đợi mẹ
có ánh mắt của thằng chồng khát rượu, khát đàn bà đang chống cằm ngồi bên bếp lửa lúc nửa đêm
có giấc mơ về bến nước một thời con gái tắm truồng khoe vú cười ran như bồ chao vỡ tổ
giấc mơ về một thời rừng xanh đầu ngõ làm bạn với công xanh làm bạn với nai vàng
ôi giấc mơ thì xa mà nỗi cơ cực lại quá gần
giấc mơ thì nhẹ mà chiếc gùi quá nặng
thế giới thì phẳng mà bước chân gập ghềnh
những người đàn bà Ê Đê, M’nông, Gia Rai, Ba Na, Xê Đăng vẫn bền gan bước đi lầm lũi
đồng hành cùng với trăng sao
(SH314/04-15)
PHẠM XUÂN PHỤNG
Trung Quốc, hãy nhớ!
NGUYỄN NGỌC PHÚ
Tổ quốc tôi ba nghìn cây số biển
NGUYỄN LOAN
Không thể nào yên
NGUYỄN THÁI HƯNG
Đất ra đảo
Hải Bằng - Nguyễn Văn Dinh - Nguyễn Khắc Thạch - Phạm Tấn Hầu - Trần Bá Đại Dương - Tôn Nữ Ngọc Hoa
Lưu Thị Bạch Liễu - Nguyễn Thuấn - Ngô Thị Ý Nhi - Nguyễn Đạt - Nguyễn Thiền Nghi
Ngọc Biển - Bích Hải - Nguyễn Thị Duyên Sanh - Đông Hương - Hồng Vinh
Kiều Công Luận - Phan Công Tuyên - Hoàng Lê Diễm Trang - Lê Hào - Trần Hương Giang - Nguyễn Hoàng Dương
PHẠM VĂN VŨ
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO
Từ Hoài Tấn có thơ xuất hiện khá sớm trên báo Văn (miền Nam) khoảng giữa năm 1960. Ngay từ buổi đầu, thơ Từ Hoài Tấn đã có một giọng điệu riêng. Và khác với một số người trong nhóm Nội Dung ngày ấy (như Thái Ngọc San, Mường Mán, Nguyễn Miên Thảo…), Từ Hoài Tấn có vẽ lặng lẽ như sự tách biệt của một con đường độc đạo để đi vào khu rừng nội tâm.
HỒ ĐẮC THIẾU ANH
*Ghi nhớ ngày tiễn đưa Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 01-04-2001
Lê Từ Hiển - Nguyễn Như Huyền
Hồ Đắc Thiếu Anh - Nguyễn Hoàng Thọ - Trần Xuân An - Trần Hữu Dũng - Dương Thành Vũ - Nguyễn Hoàng Anh Thư
NGUYỄN HƯNG HẢI
Trần Vàng Sao - Ngô Minh - Phùng Tấn Đông - Nguyễn Văn Phương - Lê Ánh
Phùng Tấn Đông - Bạch Diệp - Nguyễn Man Kim - Đoàn Mạnh Phương - Ngô Công Tấn - Vĩnh Nguyên - Phan Trung Thành - Lê Hưng Tiến - Nhất Lâm - Châu Thu Hà - Nguyên Tiêu
Nguyễn Đức Quang - Đặng Thị Vân Khanh - Tuyết Nga - Thạch Quỳ
LTS: Phùng Quán sinh năm 1932, quê xã Thủy Dương thành phố Huế, gia nhập Vệ Quốc đoàn năm 13 tuổi (1-1946) làm liên lạc, chiến sĩ trinh sát trung đoàn 101.
Đinh Thu - Thái Kim Lan - Ngàn Thương - Hoàng Thị Thương - Nguyễn Miên Thượng - Nguyễn Loan - Vũ Trọng Quang - Trần Hữu Lục - Lê Huy Quang - Đỗ Hàn - Mai Văn Hoan - Trần Tịnh Yên