NGUYỄN VĂN VINH
Nắng sớm xuyên qua kẽ lá, xẻ từng luồng ánh sáng huyền ảo. Ngôi chùa nằm im dưới rừng thông vốn trầm mặc càng yên ắng hơn. Hương trầm, hương nhựa thông quyện nhau thơm hăng hắc, đầm ấm. Tưởng gặp đâu đây trong chuyện cổ tích bà kể. Tôi và Phái vào chùa tự lúc nào.
Minh họa: Lê Thừa Tiến
Tôi quen Phái trong những ngày ngồi quán. Thế hệ chúng tôi buồn nản. Thằng đi lính kiếm sống, hay bị bắt "quân dịch". Thằng học kiếm bằng mưu sinh, thằng ngồi quán đếm những ngày thất nghiệp đi qua đời, dài lê thê. Thời chủ nghĩa hiện sinh chiếm lĩnh thị trường tri thức, "L’ étranger" của Albert Camus; "La nausée" của Jean Paul Sartre đang có đất dụng võ. Đồng tiền thước đo mọi thành đạt!
Phái tốt nghiệp trường "Quốc gia hành chánh" Đà Lạt. Bổ nhiệm làm phó quận một tỉnh lẻ dưới quyền ngài trung tá quận trưởng có tài "an ninh điện địa". Ông tân đốc sự hành chính, chưa qua mấy giông bão đời thường. Thời gian đầu đến nhiệm sở, đã thiếu nghi lễ với ngài quận trưởng. Ngài không nói nhưng rất bực mình! Ngài nén chờ sự hiểu biết của Phái. Sau đôi môi thâm xì bởi thuốc lá, đáng lẽ được nổ ra liên thanh những lời giáo huấn, bực dọc. Ngài giấu kín, nén kín vì ngài là một quân nhân mẫu mực của "Việt Nam Cộng hòa". Phái không biết nịnh đầm, đầm thứ ba của ngài trung tá. Ôi! Bà vợ lẽ thứ ba của ngài thơm tho, trẻ trung. Làn da trắng như trứng gà bóc, lồ lộ bởi cái mini upe ngắn cũn, ôm vòng mông căng nưng nức. Nàng sùng ngoại, đồ dùng toàn hảo hạng made in USA. Thậm chí, anh còn tỏ ra khinh tởm khi thấy bà phu nhân của ngài quận trưởng đang trần truồng, ráu riết trong vòng tay lông lá của ngài cố vấn Mỹ, ngay trên bàn làm việc của ngài trung tá, lúc ấy ngài trung tá đang bận công cán một xã ven đô. Công lệnh, quyết định rơi vương vãi dưới bàn. Mù vẫn hơn, sáng thành tai họa! Thường ngày anh vẫn bị nhìn với đôi mắt cú vọ, đôi mắt ấy đeo đẵng sau ót làm anh lo lắng, xanh xao. Thời buổi quyền lực ở đầu ngọn súng, biết đâu một viên đạn vô tình kết thúc đời anh. Bỏ nhiệm sở ư? Đào ngũ ư? Có nên chăng? Bao năm ăn học ra sao? Một ngàn dấu hỏi trong anh, anh đổ đốn ra ngồi quán với chúng tôi.
Phái rủ tôi lên chùa thăm một ni cô tên là Thoại Vân. Tôi nghe tên quen quen. Cô ấy là người yêu cũ của Phái. Hai người có một chuyện tình trong sáng, ngọt ngào ăm ắp hoài niệm. Chiến tranh về xáo xác làng quê, hai người xa nhau. Nghe đâu nàng theo đoàn người loạn lạc, tha hương ở các tỉnh phía Nam.
Sư bà, người đầu tiên chúng tôi gặp. Trong chiếc áo tràng thiên màu lam, trang nghiêm đức độ, bà nhìn Phái với ánh mắt không mấy hài lòng. Sư bà quay vào trong một lát, có một ni cô bước ra trong chiếc áo Nhật Bình. Tôi sửng sốt, trầm lặng. Sư cô, chừng bước như vấp, vướng gì ở cái nền xi măng láng trưng ấy? Tôi không ngồi đó được, có tiếng gọi vang vọng từ thiên thu. Cứ trân trân như bị mất hồn. Quên cả lời chào lịch lãm. Tôi bước ra vườn chùa, trong bước đi chạy trốn. Vân hiện về trong tôi rõ rệt, một sự đay nghiến đến nhức nhối. Năm ấy mùa hè. Gia đình nàng chạy vào thị xã, trước một đoàn tàn binh ô hợp. Những khuôn mặt anh hùng mũ xanh, mũ đỏ ngác ngơ, hốt hoảng, chưa qua hết kinh hoàng. Súng đạn vất đâu đó, nhưng đôi tay còn lại vẫn đốt được chợ, cạy hàng, cướp bóc, trấn lột... Thị xã rối lên màu tang tóc thua trận và lặng lẽ u uất. Người ta không dám ra đường nếu không cần thiết. Gia đình nàng tạm trú ở một trường tiểu học, dưới sự cứu trợ các đoàn thể tôn giáo. Vài gia đình chiếm một lớp, bàn ghế học sinh chắn thành khu riêng biệt của từng hộ gia đình. Nàng đẹp, mảnh dẻ nổi bật trong đám di dân bẩn thỉu. Ôi đôi mắt! Tôi muôn uống mãi dòng xanh màu biếc trong mắt ấy. Tôi điếng người bởi đôi-mắt-cười-có-đuôi. Tôi yêu nàng, một tình yêu mông muội, cháy đỏ đam mê. Nhà tôi đối diện với trường tiểu học, tôi qua lại giúp nàng và gia đình nàng, từ cái chăn đến bát gạo, đồng tiền, đến cả những thứ tủn mủn, vặt vãnh như soong chảo, kim chi...
Trời mùa thu oi ả. Đêm đêm tôi thường vác cái ghế bố qua nằm ở sân trường. Nàng với tôi thường nói chuyện tới khuya. Nàng ngủ cách tôi một khoảng, trên những chiếc ghế học trò sắp lại trước hiên.
Có đêm bức quá không ngủ được, đến bây giờ còn ray rứt khôn nguôi. Ngủ không được, chúng tôi rủ nhau đi ăn và uống giải khát. Ra ngã sáu đèn đêm hiu hắt. Chúng tôi ăn cao lầu mì và uống bia. Tôi ép nàng uống hết một chai bia 33. Hai má nàng ửng đỏ dưới đèn khuya, nàng như khói như sương, ngút say mê. Khi về nàng nũng nịu hờn dỗi, bắt đền tôi đã ép nàng uống bia quá đỗi. Tôi dìu nàng nằm trên ghế bố. Nàng thành đàn bà trong cái đêm mùa hạ có nhiều sao lấp lánh, sâu và mênh mông. Chúng tôi tan trong nhau, tan trong cơn chuếnh choáng rạo rực tuyệt vời. Tôi nhận lấy thơ ngây, sau nửa lần trao tay vụng dại. Những ngày sau nàng xem tôi xa lạ, thoáng hãi sợ, thoáng khinh khi. Tôi không thể gặp lại nàng, vì phải nặn một nụ cười méo xệch ở cả hai phía. Một chiều đầu thu bóng nàng mất hút, gia đình nàng ra quê, tôi nghĩ thế!
- Cốc... cốc... cốc, bo..o..ong...
Tiếng mõ, chuông vang lên khô, bỗng gọi tôi về thực tại. Chùa đang hành lễ thời thứ ba, trong "trú dạ lục thời", các sư ni đều đắp y vàng, những ống quần dài đều buộc túm lại. Trước điện thờ Đức Phật, Thoại Vân đang làm lễ. Đôi-mắt-cười-có-đuôi bấy giờ thâm u như cánh rừng cổ tích giấu đầy huyền thoại. Phái đứng đợi tôi ở phòng khách, tay mân mê cuốn Thiền Luận của Suzuki. Anh mượn của Thoại Vân. Tôi theo Phái đi về. Vây quanh tôi có một bài kinh sám hối vang vang. Từ đó tôi không lên chùa nữa...
Cách mạng (1975) về như cơn bão. Thay đổi bao cuộc đời.
Hơn mười lăm năm qua, lắng dịu, bớt nôn nao của thời xuất phát, sống và làm việc trong một đất nước thanh bình, chưa giàu có. Tôi nghèo đi bởi lý do riêng. Gặp lại Phái trong chuyến anh về thăm quê cũ, bất ngờ đến rưng rưng, y chừng gặp được một kỷ niệm quý đã mất đi trong dĩ vãng, nguôi quên trong năm tháng xa xưa. Chúng tôi rủ nhau vào quán rượu hàn huyên.
- Mày có vợ con ra sao?
- Vợ bỏ, bốn con ba trai, một gái.
- Vì sao vợ bỏ?
- Ôi chao, nhiều nguyên nhân, nhưng khởi đầu vợ mình không nguyên vẹn khi đến với mình.
- Mày ích kỷ quá, nàng ra sao?
- Đẹp, hấp dẫn, con quan! Thế ấy mà nàng trao thân cho một tên đại úy tên là Tôn Thất Phú đã có một vợ, năm đứa con, thuộc hạ dưới quyền của ba nàng. Tên ấy đã dùng capote để tránh đôi điều không hay đến việc thăng quan tiến chức của hắn, (tôi lè nhè hơn). Đêm ấy, sau khi xong, nàng nghe một tiếng xoạt, nàng chưa hiểu ra là gì, mai vẫn đi học như cũ.
- Nàng kể lại hay sao?
- Viết lại, hơn hai trang giấy học trò. Mày kể nghe đi chuyện của mày.
- Tao ngược lại những điều mày đã có. Vợ chồng tao tương đối hạnh phúc một gái, một trai, có xe máy, ti vi,... Tao làm phụ tá một chánh văn phòng huyện, nàng dạy cấp II. Nhà có mấy sào càfê, nuôi một đàn lợn 6 con, con nào con nấy cũng nung núc. Vợ mình dịu dàng đức độ, ảnh hưởng phần nào ở những ngày tu tập trong chùa.
Tôi đang choáng, bỗng tỉnh, ngỡ ngàng buột miệng hỏi.
- Ai vậy, có phải là...?
- Thoại Vân, chứ ai nữa!
Tự nhiên, tôi lẩm bẩm: "Nàng cũng nguyên vẹn sao?"
Dù tôi nói nhỏ, Phái vẫn nghe được. Anh ngoác cái miệng rộng cười khà khà. Tay cầm ly rượu chạm vào cốc tôi đang định uống và nói.
- Zô, trăm phần trăm.
- Ực, ực.
Phái trả lời từng tiếng:
- Nguyên, vẹn, trinh, nguyên.
Tôi hụt hẫng, như dưới chân mất một điểm tựa. Tôi uống với Phái đến tối mịt. Trước khi chia tay anh hứa sẽ tìm nhà tôi, nhậu với tôi một lần trước khi vào Nam.
Tôi về, trời mưa thấm lạnh, nỗi lạnh trời sao bằng cái lạnh cô đơn.
Tình yêu có thể dối nhau chăng?
Dù nói dối là một điều cần thiết?
N.V.V
(TCSH54/03&4-1993)
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…