Người bán thước kẻ

11:31 22/05/2008
Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc, nhận tấm thẻ thương binh, tôi trở về quê nhà. Để bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, tôi dã dành tất cả số tiền chính sách nhận được mở một quầy sách báo. Khách hàng của tôi khá đông.

Trong đó, người đàn ông luống tuổi có cánh tay phải teo tóp, quắt quéo là người khách thường xuyên nhất. Chiều chiều, mỗi khi đi bỏ những bó thước kẻ cho các hiệu tạp hóa trong thành phố về, ông thường ghé quầy của tôi đọc báo "cọp". Ông thường kiếm đọc mục "Nhắn tìm đồng đội" và tin tức. Thi thoảng báo có bài xã luận hoặc phóng sự hay, không có thời gian xem tại chỗ, ông mới mua về nhà đọc. Thoạt đầu, tưởng ông là người bị dị tật bẩm sinh nên tôi chỉ quan hệ với ông như những khách hàng bình thường khác. Mãi đến ngày 27-7, thấy trên ngực ông lấp lánh chiếc huy hiệu thương binh thì tôi mới quan tâm đến ông. Ông vừa vào đến quầy tôi đã niềm nở:
- Mời bác vào trong này uống với cháu li rượu nhân ngày Thương binh liệt sĩ của chúng ta đã.
Ông khẽ gật đầu rồi cầm mấy tờ báo bước vào ngồi ở chiếc ghế phía đối diện với tôi.
Tôi mở chai rượu bổ mà Ủy ban phường mới biếu sáng nay rót vào hai cốc, nói:
- Trước hết, xin bác thứ lỗi vì hôm nay cháu mới biết bác là thương binh.
Ông không nói gì, chỉ cầm li rượu cụng vào li tôi một cái đánh cốp, mắt vẫn không rời mục "Nhắn tìm đồng đội" trong tờ báo. Chờ ông đọc xong, tôi hỏi:
- Xin lỗi, bác tìm liệt sĩ nào vậy?
Ông chằm chằm nhìn tôi như để dò xét, như để xem có đáng thổ lộ tâm sự hay không. Một lúc sau ông mới nói:
- Tôi tìm hai người con. Một hi sinh trong trận đánh mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh ở Buôn Ma Thuột. Một ở cửa ngõ Sài Gòn.
Tôi vừa lặng lẽ lắng nghe, vừa chăm chú nhìn ông. tôi thấy tay ông bóp mạnh vào li rượu. Người ông khẽ rung lên. Hai mắt đượm buồn rồi bỗng sáng quắc như có lửa. Và tôi nghe dường như có tiếng tanh tách phát ra từ chiếc cốc thủy tinh trong tay ông.
Biết ông đã mất nhiều thời gian, công sức tìm kiếm tung tích của hai người con đã hi sinh và đang nóng lòng muốn biết mộ của họ ở đâu nên tôi nói:
- Bác cho cháu biết tên tuổi của hai anh để cháu tìm hộ cho. Đọc thấy, cháu sẽ báo tin cho bác.
- Thế thì quý quá! - ông mừng rỡ nói - Đứa hi sinh ở Buôn Ma Thuột tên là Nguyễn Đông Bắc, sinh ngày 31-12-1947. Còn đứa ở Xuân Lộc là Nguyễn Thu Đông, cũng sinh ngày 31-12-1947.
Tôi vừa nghe vừa ghi vào sổ. Nhưng đến ngày sinh của liệt sĩ thứ hai, sợ ông nhầm lẫn, tôi cẩn thận hỏi:
- Liệt sĩ Nguyễn Thu Đông cũng sinh ngày 31-12-1947?
Ông đáp:
- Vâng, sinh đôi mà. Tôi đã lấy tên Chiến dịch Thu Đông 1947 ở Đông Bắc, nơi mình đã tham gia chiến đấu và bị thương, để đặt tên cho chúng.
Tôi hỏi thêm để biết rõ hơn về hai liệt sĩ cần tìm:
- Thế ai là anh, ai là em ạ?
Ông chặc lưỡi, vò đầu tỏ ra ân hận, nuối tiếc về sự sơ suất của mình:
- Rất tiếc là tôi cũng chẳng biết. Sinh được mấy ngày, do mất nhiều máu, kiệt sức, hơn nữa lại quá lo lắng vì không biết tôi sống chết ra sao nên vợ tôi đã không qua nổi cơn hậu sản. Khi tôi phục viên về nhà, hai đứa đã biết lật. Tôi đã hỏi những người thân trong gia đình nội, ngoại nhưng người thì nói đứa này sinh sau, đứa này sinh trước, kẻ thì nói ngược lại. Chẳng ai biết chắc chắn đứa nào anh, đứa nào em cả. Chúng giống nhau quá mà.
Vợ mất để lại hai đứa trẻ sơ sinh khát sữa. Ông lại chỉ còn một tay, làm thế nào mà xoay xở nổi. Nghĩ thế, tôi tò mò hỏi:
- Bác nuôi hai anh khôn lớn chắc vất vả lắm? Làm sao mà bác vượt qua được?
Ông lắc đầu, nhún vai:
- Vất vả thì hết chỗ nói. Nửa đêm nằm giữa hai đứa trẻ thèm sữa mẹ khóc thét lên, không tài nào dỗ cho chúng nín được, kể cũng da diết và đoạn trường thật. Riêng bị chúng "tè" ướt mèm, phải loay hoay thay tã và thay áo quần cho cả ba cha con cũng đã đủ xâm xoàng mặt mũi. Nhưng rồi mọi vất vả cũng dần dần trôi qua. Phần thì nhờ hai gia đình nội, ngoại và bà con chòm xóm, láng giềng. Phần thì nhờ cái này! - Ông vừa nói, vừa dứ dứ cánh tay còn lại trước mặt mình. Khi chúng còn nhỏ, tôi đã phải thường xuyên bắt cóc nấu cháo cho chúng ăn. Nhờ thế chúng đã không bị chết vì suy dinh dưỡng. Chú biết đấy, hồi đó làm gì sẵn sữa bò như bây giờ. Còn khi chúng lớn lên thì tôi lại phải làm thước kẻ đi bán để nuôi chúng ăn học.
Tôi chằm chằm nhìn cánh tay ông. Lòng vừa thán phục, vừa thương cảm:
- Còn một tay, sao bác không chọn nghề cho phù hợp với mình mà lại chọn nghề làm thước kẻ? Xin làm ở một cơ quan nào đó chẳng hạn. Như vậy có phải khỏe hơn không?
Ông cười:
- Hì. .. hì. ... Ai mà chẳng biết vậy. Song mình làm sao tốt bằng người lành lặn. Không làm được việc mà chiếm chỗ của người khác để nhận lương thì coi sao được. Xấu hổ chết! Chỉ có chọn nghề làm thước kẻ mới phù hợp với tôi. Bởi vì, tôi vốn xuất thân từ con nhà thợ mộc. Thước thì thị trường lại rộng, học sinh đứa nào chẳng cần. Hơn nữa, tôi còn có sở thích muốn làm cho bọn trẻ làm quen với mực thước, với ngay thẳng khi còn nhỏ. Do đó, chỉ có chọn nghề này, tôi mới có đủ điều kiện và động lực để vượt qua chính mình.
Nghị lực vượt qua thương tật của ông đã làm tôi nhớ lại tấm gương tự lực của một thương binh mà mình vừa nghe trong buổi tọa đàm kỉ niệm ngày Thương binh liệt sĩ ở phường nên hỏi:
- Sáng nay, cháu nghe nói ở thành phố ta có một thương binh được cấp nhà tình nghĩa nhưng đã từ chối. Bác có biết người đó là ai không ạ?
Ông không trả lời mà lấy thuốc châm hút. Miệng thổi ra những vòng khói tròn xoe như những chiếc vòng đeo tay của phụ nữ. Mắt lim dim nhìn những vòng khói thuốc to dần, to dần rồi đứt đoạn, tan biến, hư vô. Xong, ông mở to mắt nhìn tôi, hỏi:
- Chú hỏi người đó để làm gì?
Tôi đáp:
- Thú thật với bác, cháu định làm đơn xin cấp nhà ở nhưng khi nghe chuyện của người thương binh đó, cháu cảm thấy cứ ngài ngại thế nào ấy. Vì vậy cháu muốn hỏi bác để quyết định mình có nên viết hay không.
Giọng ông trở nên thân tình:
- Chú đã hỏi thế thì tôi cũng không nỡ giấu. Người đó chính là tôi. Ông dừng lại nhấp ngụm rượu rồi nói tiếp - Dù xấu, dù nhỏ, tôi cũng đã có chỗ ở và thờ tự. Nhiều người trong số anh em chúng ta còn khó khăn hơn nhiều... Mà tôi khác, chú khác đó nghe. Chú còn phải lấy vợ, chật chội và chung đụng thế này phiền phức lắm. Chú cứ viết đơn đi. Chú xứng đáng được cấp nhà đấy.
Nói xong, ông đứng dậy bắt tay tôi siết chặt làm tôi đau nhói. Tôi khẽ rùng mình và cảm thấy bàn tay vạm vỡ của mình trở nên yếu ớt trong bàn tay còn lại của ông.
Sau lần tiếp xúc đó, chiều chiều đi bán thước về, ông vẫn ghé vào quầy của tôi như thường lệ. Nhưng khác trước, ông không còn phải vất vả kiếm báo đọc mục "Nhắn tìm đồng đội" như trước. Tôi đã làm việc đó dùm ông. Thời gian đọc báo của ông được dành cho những câu chuyện tâm tình. Chúng tôi đã kể cho nhau nghe về cuộc chiến đấu gian khổ nhưng hào hùng của mình, về tình cảm đồng chí, đồng đội. Chúng tôi đã tâm sự với nhau về những niềm vui, nỗi buồn của mình, về tâm tư, nguyện vọng của anh em thương binh. Dần dần, chúng tôi đã gần gũi, gắn bó với nhau hơn. Tuy khác thế hệ nhưng chúng tôi đã trở thành một đôi bạn tâm giao.
Một buổi chiều không thấy ông đến, tôi cảm thấy trống vắng nên lên xe lăn đi tìm ông. Thì ra ông bận tiễn đứa cháu đích tôn của mình vào trường đại học quân sự. Khi tôi đến thì ông vừa mới về.
Ông sống trong một ngôi nhà cổ, bề ngoài trông có vẻ lụp xụp nhưng bên trong lại rất gọn gàng, ngăn nắp. Trong phòng khách, chín cái khung gỗ lồng kính chưng huân chương và bằng Tổ quốc ghi công treo trên tường có sức thu hút mạnh mẽ. Chúng có màu sắc trang nhã, đường nét sắc sảo, lại điểm những nét hoa văn tinh xảo. Tất cả đều toát lên một vẻ trang trọng khác thường. Điều đó nói lên chúng phải được làm ra từ một người có tâm huyết, có con mắt của một nghệ sĩ và có đôi tay của một nghệ nhân.
Khi tôi đang mãi nhìn chúng thì ông đến vỗ vào vai:
- Nhìn gì mà kĩ thế?
Tôi đáp:
- Cháu chưa thấy ở đâu có những cái khung treo huân chương đẹp như thế này.
Ông gật gật đầu:
- À ra thế! Sẵn gỗ và rảnh rỗi làm treo chơi đấy mà. Chú thích thì để tôi tặng cho một cái.
Tôi đang kinh ngạc về khả năng của ông thì ông đã bước đến dỡ cái khung có tấm huân chương chiến công của mình xuống. Tôi biết phải mất nhiều công sức lắm ông mới làm được một cái khung như vậy nên vội cản:
- Thôi bác! Để bác làm cái khác rồi cháu lấy sau cũng được!
Ông cương quyết:
- Không sao! Chú lấy thì tôi mới làm cái khác thay. Nếu không nhiều khi lần lữa lại quên mất nên vô tình trở thành người thất hứa. Tính tôi việc gì phải là phải làm ngay. Ông vừa nói vừa gỡ cái khung cho tôi.
Từ khi tôi đem cái khung ông tặng treo tấm Huân chương Chiến công của mình lên, anh em thương binh đến chơi trông thấy đều khen đẹp và hỏi tôi mua nó ở đâu. Tôi đã nói nguồn gốc xuất xứ của nó cho họ biết. Thế là nhiều người trong số họ đã tìm đến ông. Vốn là người hảo tâm và biết trân trọng công lao, cống hiến của mọi người nên ông không từ chối một ai. Rồi người này giới thiệu cho người khác nên số người đến nhờ ông ngày càng đông. Số khung ông làm tặng ngày càng nhiều, càng đẹp và càng có hồn hơn. Có lẽ chỉ có ông người đã từng cống hiến, hi sinh và biết trân trọng sự cống hiến, hi sinh của người khác hơn cả chính mình, mới có khả năng làm được những cái khung như vậy.
...Ngày ông gục trên cái khung đang làm dở, trên bức tường ở phòng khách nhà ông, trừ những tấm huân chương và bằng Tổ quốc ghi công của hai người con, còn ba tấm huân chương của ông thì không còn lại cái nào. Ông đã dành tất cả cho mọi người.
Người thương binh già đáng kính đã ra đi...

NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾN
(nguồn: TCSH số 149 - 07 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.

  • PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.

  • NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H