Năm gương mặt văn nghệ tuổi Tuất

16:58 18/11/2008
NGUYỄN THỤY KHA1. BÁC CẢ KHOÁTNhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát sinh năm Canh Tuất 1910 - năm Tuất đầu tiên của thế kỷ XX. Bởi vậy, bác mang bản mệnh Dương Thoa Xuyên Kim (vàng trang sức).

Hồi ấy, Hà Nội có một nhóm văn nghệ sĩ tuổi Canh Tuất là : Nhà văn Nguyễn Tuân, nhà thơ Đoàn Phú Tứ, họa sĩ Trần Văn Cẩn, họa sĩ Hoàng Lập Ngôn và nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Bác cả Khoát là người vào học Viễn Đông Âm nhạc sớm nhất từ năm 1927. 70 năm sau, bác được giải thưởng Hồ Chí Minh.
Ôm giấc mộng Thạch Sanh từ tuổi 17, những mong cứu thoát nàng công chúa âm nhạc Việt ra khỏi sự cầm tù của cổ hủ, của ngoại lai. Nhưng giấc mộng đã tan thành mây khói khi ra trường, bác đã phải kéo lê cây đàn contrebasse đi kiếm ăn qua các hộp đêm Hà Nội. Nhưng chính trong những đêm lê bước nhọc mệt trên đường về nhà, một tiếng đàn tứ của bác kép cải lương, một tiếng phách ả đào rơi qua cửa sổ phố Khâm Thiên đã làm bác cả Khoát tỉnh ngộ. Bác đã giật mình nhận ra cả kho tàng âm nhạc Việt phong phú mà bác từng ngỡ là cổ hủ vẫn chưa được ai kế thừa và giới thiệu ra thế giới. Thế là bác đã chọn công việc này làm sự nghiệp của mình. Thế là những "Thằng Bờm", "Con voi", "Con cò"... trong ca dao đã được bác hóa thân vào Tân nhạc để chúng cất cánh bay vào xã hội đương thời độc đáo và dí dỏm. Hồn hậu và khôi hài. Rồi chàng nhạc sĩ lần đầu tiên biểu diễn dương cầm ở Nhà Hát lớn ngày đó đã lọt mắt xanh của nàng nữ sinh áo dài trắng cùng những bông huệ trắng muốt như vừa bước ra từ bức tranh của Tô Ngọc Vân. Những ngón tay thon nhỏ của nàng lướt trên những phím đàn như rắc một làn mưa nhẹ thánh thót vào các giờ tập, như rắc mộng vàng vào đời chàng. Và nàng đã hóa thân thành giai điệu "Màu thời gian" chàng phổ thơ của người bạn đồng niên tuổi Tuất Đoàn Phú Tứ, bài thơ cũng được bạn làm ra vì đắm say tiếng dương cầm của nàng Vân con gái cụ Nguyễn Văn Vĩnh và chị của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp.

Lãng mạn trong những âm hưởng dân tộc vừa cho bác cả Khoát tình yêu trong cuộc đời và cả tình yêu trong sự nghiệp. Yêu quá, có lúc nghĩ "hiện đại" trong âm nhạc thật ấu trĩ. Bác đã từng đem dương cầm và vĩ cầm ra đệm thay dàn nhạc chèo trong "Lưu Bình Dương Lễ, lại cũng tán thành cải biên "Tấm Cám" thành "Chị Tấm anh Điền" tưởng là mô - đéc trong kịch bản và hiện đại bằng cách đưa vào chèo kỹ thuật hát thính phòng châu Âu. Cứ ngỡ bỏ pho - mát vào bún riêu là món ăn cổ truyền thành món ăn hiện đại. Cũng nhờ yêu qua mà bác nhận ra nhanh sự ấu trĩ.
Càng sống, bác cả Khoát càng nặng lòng với "con âm Việt ". Bác đã gặp Nguyễn Thiên Đạo trong ý tưởng sáng tạo những tác phẩm dành riêng cho bộ gõ "siêu giai điệu". Trước ngày chuyển cõi, ngồi nghe bà Hồ hát ca trù, bác hỏi tôi đố biết tiếng trống chầu từ đâu rơi xuống. Hóa ra nó không phải là từ tay người là một mảnh thiên thạch từ vũ trụ rớt xuống. Để rồi lại như bác về với vũ trụ vào năm ở tuổi 84.

2. BÁC SÔNG ĐUỐNG
Nhà thơ Hoàng Cầm sinh năm Nhâm Tuất 1922 - năm Tuất thứ hai của thế kỷ XX. Bởi vậy, bác mang bản mệnh Dương Đại Hải Thủy (nước biển lớn). Bác tên thật là Bùi Tằng Việt vì đẻ ở thôn Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Song, so hiểu nghề thuốc của bố, bác đã chọn tên loại thuốc đắng nhất "Hoàng Cầm" làm bút danh của mình. Sự nổi tiếng của bài "Bên kia sông Đuống" bác viết năm 1948 đã khiến người đời quen gọi bác là "bác Sông Đuống".

Có lẽ trong những người tuổi Tuất làm văn nghệ, ít ai gắn bó, thăng trầm với tuổi này như "bác Sông Đuống". Mới 12 tuổi năm Giáp Tuất 1934, bác đã vương ngay vào tình ái với bà chị Diệu Bông lớn hơn nhiều tuổi "Em mười hai tuổi tìm theo chị - Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa". Cứ thế, bác cứ yêu bà chị suốt thập nhị chi thanh xuân ngay cả khi đã có vợ và có con rồi. Những mối tình chị em này đã được bác gọi là "thời I" trong tập "99 tình khúc" của bác mới ấn hành. Đến năm Bính Tuất 1946, bác trình làng chế độ mới một kịch thơ tầm cỡ "Kiều Loan" và yêu say đắm người sắm vai Kiều Loan là bà Tuyết Khanh đến thành gia thất. Và khi sinh ra cô con gái năm 1948 thì cũng lại đặt tên là Kiều Loan. Vở "Kiều Loan" sau khi trình làng đầu tiên tháng 12/1946 thì năm vừa rồi mới được Nhà hát Tuổi Trẻ dựng lại với một dàn diễn đương thời. Chắc tới Bính Tuất 2006, sau một vận hội im lặng, "Kiều Loan" sẽ khóc cười thật sang trọng, thật lộng lẫy trước công chúng đúng tầm cỡ của nó.

Sau năm Bính Tuất 1946, Hoàng Cầm đi kháng chiến và trở thành nhà thơ chống Pháp nổi tiếng với "Bên kia sông Đuống". Nhưng đến năm Mậu Tuất 1958, thì bác lại bị rày rà vào vụ "Nhân văn Giai phẩm". Chính những năm tháng lặng lẽ sống trong bóng tối của căn gác xép ở số nhà 43 Lý Quốc Sư - Hà Nội đã khiến cho Hoàng Cầm "lên đồng" ra một tập thơ tầm vóc "Về Kinh Bắc". Do ý nghĩa nhân văn mới mẻ của nó nên không phải ai, không phải thời nào cũng có thể nhận ra đúng chân giá trị, cho đến năm Canh Tuất 1970, Hoàng Cầm lên ngôi ông nội thì "Về Kinh Bắc" vẫn chỉ được "truyền mồm" qua các quán rượu. Đến năm bác tròn 60 tức là đã qua một vận hội đến Nhâm Tuất 1982, Hoàng Cầm lại bị rày rà với nhà chức trách vì một hiểu lầm với tập "Về Kinh Bắc". Thời kỳ đổi mới đã đem lại những năm Tuất viên mãn cho Hoàng Cầm. Đến năm Giáp Tuất 1994, sau khi đã in liên tiếp năm tập thơ từ 1988 đến 1993, tập "Về Kinh Bắc" chính thức được ấn hành, đóng đinh tên tuổi Hoàng Cầm vào thế kỷ XX bằng chính tiền tài trợ của nhà nước thông qua Hội Nhà văn. Sau đó, Hoàng Cầm vẫn tiếp tục ấn hành rất nhiều tập thơ tình để trở thành "ông hoàng thơ tình". Sự nghiệp của "bác Sông Đuống" chắc sẽ được định vị với Giải thưởng Nhà nước vinh hạnh vào năm Bính Tuất 2006.
"Bác Sông Đuống" như sinh ra để yêu và làm thơ. Trong tập "99 tình khúc" bác đã dành trọn một trang để "tâm hương" và "dâng" đến "13 Nàng" mà bác cho rằng đó là những người gây ra thơ tình Hoàng Cầm.

3. BÁC ĐÈN ĐỎ
Nhạc sĩ Hồng Đăng sinh năm Giáp Tuất - 1934 - năm Tuất thứ ba của thế kỷ XX. Bởi vậy, bác mang bản mệnh Dương Sơn Đầu Hỏa (lửa trên núi). Hồng Đăng tên thật là Phan Đăng Hồng, quê và sinh ở Yên Thành - Nghệ An. Bác nghe đâu vốn dòng họ Mạc Đăng. Sau lọan, chạy vào xứ Nghệ đổi ra họ "Phan" song vẫn giữ đệm "Đăng". Vì ông già tham gia cách mạng sớm, lúc bác sinh đặt ngay cho cái tên thật "đỏ" là Hồng. Đến khi sáng tác, giống như Xuân Hồng đảo từ tên thật là Hồng Xuân, bác nhà ta cũng đảo thành Hồng Đăng. Từ  bao giờ, anh em trong giới nhạc đã "nôm" hóa Hồng Đăng thành "Bác đèn đỏ".
Hơn 40 năm trước, vào những ngày tươi đẹp nhất của hòa bình ở miền Bắc, bỗng lòng ta xao xuyến khi nghe vút cao một bài ngợi ca Tổ quốc ngắn mà hào sảng, sang trọng mà chân thành.
Mười năm chống quân ngoại xâm từng giọt máu đã ướt ruộng đồng
Quê chúng ta ngàn năm giờ sáng lên những mùa xuân
Đẹp như chiến công toàn dân ngọn cờ vẫy chiếu nắng ngời ngời
Ôi Tổ quốc lắng nghe ca ngợi từ lòng tôi.

Bài hát “Tổ quốc tôi trên mười năm đã lớn” chỉ có hai câu nhạc mà ám ảnh thế hệ chúng tôi đến bây giờ. Và cái tên Hồng Đăng tác giả cũng đóng đinh vào chúng tôi từ đó.
Ai ngờ chàng nhạc sĩ tài hoa ấy vốn là giáo viên dạy văn. Mê nhạc, bác bỏ giáo dục vào học khóa đầu tiên trường Âm nhạc Việt Nam, cùng lớp với Hoàng Việt, Huy Thục, Tô Ngọc Thanh, Vĩnh Cát... để rồi sau đấy trả lại cho nghề trồng người này một “Quà tháng 5” hồ hởi và tươi tắn. Hồi chiến tranh, bác hay bị coi là người có “lỗi” vì bên cạnh những “Lửa rực cháy”, “Những con tàu đồng chí” phục vụ chiến đấu, bác thích nhạc nhẹ hơi sớm nên viết ra “Sóng biển lang thang”. Viết ra đã là có lỗi lại còn gửi dự thi mãi bên Tiệp Khắc và lọt vào mắt xanh ban giám khảo. Sáng tác mà được bọn “xét lại” khen thì bác quả là lỗi lớn rồi. Bác tên là “đèn đỏ” mà lại có “tư tưởng xanh” như thế là dở hơi rồi, là “xong” rồi.

Nhưng chính trong những năm tháng tưởng là “dở hơi” như thế, “bác đèn đỏ” lại có “Hoa sữa” thơm hắc mãi tới tận bây giờ. Cũng vẫn là cái thói mê nhạc nhẹ. Nhưng đến khi cả nước mê thì bác hết “dở hơi”, hết “xong”. Bác trở thành phó Tổng thư ký thường trực Hội Nhạc sĩ Việt nam tới ba khóa liền từ bắt đầu đổi mới đến nay.
“Bác đèn đo” cũng thuộc loại ham chơi và thích nữ. Nhờ trời cho cái tài xem tử vi mà số bạn bè, chị em quấn quít quanh bác hơi “bị đông”. Có cậu cả thấy “Bác đèn đỏ” nổi tiếng quá bèn chơi quả “đạo danh”. Chính “Bác đèn đỏ” đã chứng kiến cậu cả đó tự nhận mình là nhạc sĩ Hồng Đăng và tự kể về mình thật hấp dẫn. Hấp dẫn đến nỗi mà “Bác đèn đo” nghi ngờ cả chính mình có lẽ không phải là Hồng Đăng mà chính cậu cả kia mới đích thị là Hồng Đăng. Gớm! nổi tiếng thì sướng cái nỗi gì. Truân chuyên đến phát ớn. Người ta “vợ cái con cột”. Mình phải "viết tiểu thuyết" đến ba tập mới ổn được cái vụ “bà xã”. Đành tự an ủi số kiếp đào hoa mà.
“Bác đèn đỏ” còn thích ăn đồ ngọt cực kỳ. Không chỉ mình thích mà còn muốn mọi người khác thích. Túi bác chẳng lúc nào thiếu các loại kẹo lạ. Cùng kẹo lạ là thuốc lá lạ, bật lửa lạ. Thích bác tặng tuốt. Bác mê mua đồ tặng đến mức chuyên ghi nợ sổ lương của Hội. Mà phải thôi. Đến bài hát còn tặng được cuộc đời, nữa là ba cái vụ lẻ tẻ này.

4. BÁC CỎ XANH
Nhà thơ Thanh Thảo sinh năm Bính Tuất - 1946 - năm Tuất thứ tư của thế kỷ XX. Bởi vậy bác mang bản mệnh Dương Ốc Thượng Thổ (Đất trên nóc nhà). Thanh Thảo tên thật là Hồ Thành Công, quê và sinh ở Mộ Đức, Quảng Ngãi. Bác là con trai cụ Hồ Thiết - Nguyên Chủ tịch tỉnh Quảng Ngãi thời chống Pháp (khi ấy Quảng Ngãi là vùng tự do của ta). Chắc khi sinh bác, cụ thấy nước Việt mới đã khai sinh nên mới đặt tên con là để ghi nhớ sự kiện lịch sử này. Dòng họ Hồ theo gia phả cũng phát xuất từ Quỳnh Đôi - Nghệ An. Nhưng khi bắt đầu làm thơ, Thanh Thảo để nguyên tên thật Hồ Thành Công thì chẳng ai biết. Cũng như Thu Bồn cứ để tên thật là Hà Đức Trọng thì có khối mà có nhà thơ Thu Bồn nổi tiếng. Thanh Thảo là bút danh “Bác cỏ xanh” chọn cho mình có lẽ vì ám ảnh cỏ trên đường xuyên Trường Sơn vào Nam Bộ. “Mười tám hai mươi sắc như cỏ - dày như cỏ - yếu mềm và mãnh liệt như cỏ”. Nhờ bút danh ấy và sự chằm vặp không né tránh sự thật nghiệt ngã của chiến tranh mà Thanh Thảo đã làm mới thêm những tuyên ngôn bằng thơ của thế hệ chống Mỹ. Những tuyên ngôn ấy cũng khiến Thanh Thảo nhiều phen lao đao với những đầu óc thủ cựu ở “R”. Nhưng thơ Thanh Thảo đã lọt mắt xanh nhà thơ Chế Lan Viên. Chùm thơ 13 bài đã được giới thiệu trân trọng trong Tạp chí Tác phẩm Mới năm 1974. Sau thống nhất, Trại sáng tác Quân khu 5 là nơi Thanh Thảo hoàn thành tập thơ “Dấu chân qua trảng cỏ” và trường ca “Những người đi tới biển” như một tiếp biến nghệ thuật từ trường ca “Những người trên cửa biển” của Văn Cao. Đó cũng là lý do vì sao tình bạn vong niên giữa Thanh Thảo và Văn Cao thật đặc biệt. Văn Cao đã lấy tên Thanh Thảo đặt cho cháu gái ngoại của mình. Bây giờ cháu đã 18 tuổi và là một nghệ sĩ dương cầm đầy triển vọng ở Ba Lan.

“Bác cỏ xanh” vừa làm thơ hay vừa uống rượu giỏi. Một thời dài, chúng tôi là bạn thù tạc mềm môi. Bây giờ đứa huyết áp cao, đứa “goute” thành thử chỉ dám uống “đoan trang” mà thôi.
Sau “Dấu chân qua trảng cỏ” đọat giải thưởng Hội Nhà văn năm 1978, Thanh Thảo lại tìm đến một cách tân khác là tập “Khối vuông Ru bich”. Tập thơ này cũng đoạt giải thưởng Hội Nhà văn năm 1985.
Cũng từ sau trường ca “Những người đi tới biển” Thanh Thảo đã có một “thời kỳ trường ca”. Trả nghĩa cho Quảng Ngãi quê hương, Thanh Thảo có trường ca “Trẻ con ở Sơn Mỹ” và “Bùng nổ của mùa xuân” viết về khởi nghĩa Ba Tơ. Trả nghĩa cho miền chiến trường cưu mang những ngày chiến tranh, Thanh Thảo có “Những nghĩa sĩ Cần Giuộc”, “Trò chuyện với nhân vật của mình” “Cỏ vẫn mọc”. Nếu bút danh “Bác cỏ xanh” là Thanh Thảo thì dường như từ “Dấu chân qua trảng cỏ” đến “Cỏ vẫn mọc” mới thấy Thanh Thảo rất chung thủy với đề tài cỏ. Cỏ qua Thanh Thảo là biểu hiện một sức sống Việt bền bỉ: “Cọng cỏ tầm thường vẫn lấp lánh”.

“Bác cỏ xanh” cũng đã nhiều lần xuất ngoại để tôn vinh thơ Việt . Năm 1985 “Bác cỏ xanh” cùng “Bác Xuân Diệu” đi dự liên hoan văn hóa ở Mouscow. Năm 2003, “Bác cỏ xanh” cùng “Nàng họ Vi của núi” Vi Thùy Linh đi dự một Festival thơ ở Pháp. Năm 2004, “Bác cỏ xanh” đi độc diễn thơ ở “Ngày thơ thế giới” tại Hà Lan. Năm 2005, “Bác cỏ xanh” lại phiêu du châu Âu với thơ của mình.
“Bác cỏ xanh” còn là một nhà báo viết về bóng đá có tầm cỡ trong làng báo thể thao nước nhà.

5. BÀ CHÚA TRỊNH
Nghệ sĩ ưu tú Lê Vân sinh năm Mậu Tuất 1958 - năm Tuất thứ năm của thế kỷ XX. Bởi vậy “Bà chúa Trịnh” mang bản mệnh Dương bình địa mộc (cây đồng bằng). Lê Vân tên đầy đủ là Trần Lê Vân - trưởng nữ của vợ chồng Nghệ sĩ Nhân dân Trần Tiến và Lê Mai và là cháu ngoại nhà thơ Lê Đại Thanh - cuốn từ điển Hải Phòng đương đại thế kỷ XX. Trong ba chị em tuy mỗi người mỗi vẻ mười, thì Lê Vân vẫn có một độc hành rất khác biệt với Lê Khanh và Lê Vy.
Lê Vân có một vẻ đẹp rất thuần Việt “khuôn mặt trái xoan - cổ kiêu ba ngấn”. Một vẻ đẹp hút hồn khiến khó có đấng mày râu nào nghênh diện mà không cảm thấy nao nao. Vào trường Múa Việt từ năm 11 tuổi, Lê Vân đã tu nghiệp xuất sắc. Vừa có kỹ thuật lại vừa có “gien” sân khấu của bố mẹ, chỉ chớm thanh xuân, Lê Vân đã thành danh với các vai chính như Odetta (Hồ thiên nga), Ghiden, Phrighia (Spáctaquýt), cô gái (Cô tiểu thư và anh chàng du đãng)... có một nghiệp thứ hai cùng song hành với nghiệp múa của Lê Vân là nghiệp “Điện ảnh”. Chính nghề cinéma này đã làm cho Lê Vân trở thành “Bà chúa Trịnh”. Một nghiệp tình cờ.

Năm 1979, Lê Vân 21 tuổi. Đạo diễn Nông Ích Đạt làm phim “Những con đường” (kịch bản của Đặng Ái) đang phân vân đi tìm vai Thuận - một cô gái thôn quê, ngây thơ, trong sáng đi thanh niên xung phong, thì được nhà quay phim Phạm Thiên Thuyết giới thiệu Lê Vân. Cô gái có đôi mắt to, trong trẻo, thông minh đã chinh phục ngay đạo diễn họ Nông. Thế là sau khi hóa thân làm Thuận, Lê Vân bắt đầu bước vào nghệ thuật điện ảnh. Thành Thư trong “Tự thú trước bình minh”, thành Thu Thủy trong “Đất mẹ”, thành chị Dậu trong “Chị Dậu”, thành Duyên trong “Bao giờ cho đến tháng mười”. Từ chị Dậu, Lê Vân đã thực sự khẳng định tên tuổi trong làng điện ảnh, tạo được dấu ấn nghệ thuật đến Duyên, Lê Vân đã đọat giải thưởng nữ diễn viên xuất sắc nhất trong liên hoan phim Việt Nam năm 1985.

Nhưng Lê Vân trở thành “Bà chúa Trịnh” từ khi sắm vai Tuyên Phi Đặng Thị Huệ của chúa Trịnh Sâm trong “Đêm hội Long Trì” và “Kiếp phù du” của đạo diễn Hải Ninh. Có lẽ cái vẻ đẹp thuần Việt và rất sang trọng của Lê Vân rất “ăn điện ảnh” khi hóa thân thành “Bà chúa Trịnh”. Trước khi là “Bà chúa Trịnh” thì cô gái hái chè làng Phù Đổng Đặng Thị Huệ đã được dân gian gọi là “Bà chúa chè” bởi sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Là con ông đồ nên nàng được dạy dỗ chữ
nghĩa cẩn thận cùng trí thông minh và bản lĩnh khác người. Để lột tả hết chân dung “Bà chúa Trịnh” với âm mưu sử dụng sắc đẹp của mình trở thành chính phi và chính khách. Lê Vân đã phải dụng công biết bao để ngẫm nghĩ kịch bản và nhập thần nhân vật. Nếu người mến mộ vì thương chị Dậu, cô Duyên mà yêu Lê Vân thì ngược lại, càng ghét “Bà chúa Trịnh” bao nhiêu càng yêu Lê Vân gấp bội bởi vai diễn quá sắc sảo và thành công của "người đàn bà đa đoan" trong con người Lê Vân.

Đã bị Lê Vân chinh phục trước màn ảnh cinéma, ta sẽ còn bị Lê Vân chiếm đoạt luôn nếu chiêm ngưỡng “Bà chúa Trịnh” tung hoành so lo trong vũ điệu “Tiếng gọi nơi hoang dã” do chính Lê Vân biên kịch, biên đạo và chọn nhạc. Xem Lê Vân múa, thấy nghẹt thở, thấy bức bối, chỉ muốn bay lên giải thoát giữa mây cao.
Hình như mãi đến sau khi sắm vai cô Việt kiều trong “Thương nhớ đồng quê”, Lê Vân mới thu về ẩn dật làm một người mẹ ở một biệt thự trong ngõ sâu phố Thụy Khuê. Không biết Lê Vân còn mộng “tái xuất giang hồ” nữa không, nhưng những gì đã hiện diện về “Bà chúa Trịnh” trước người đời thì cũng đủ để lại một ấn tượng Mậu Tuất tài hoa và đào hoa đến cùng cực rồi.
N.T.K

(nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.