Đến với văn học trong mở đầu thế kỷ XXI - những chuyển đổi trong cảm hứng…

15:12 23/05/2025
Văn học thế kỷ XXI là văn học sau Đổi mới và trong Hội nhập, hoặc từ Đổi mới sang Hội nhập. Cần lưu ý Đổi mới và Hội nhập là hai giai đoạn (hoặc cấp độ) khác nhau. Có Đổi mới rồi mới có Hội nhập. Từ Đổi mới đến Hội nhập có một khoảng cách gần 10 năm (1986 - 1995), đi qua mốc lịch sử 1990 - thời điểm kết thúc cuộc chiến tranh lạnh.

Cần đặt hành trình trên vào tổng thể, hoặc toàn cảnh văn học Việt Nam hiện đại, hoặc văn học thế kỷ XX để thấy tính kế thừa và tính chuyển đổi của nó. Và như vậy cần chú ý các mốc lịch sử lớn tác động và làm thay đổi diện mạo văn học qua nhiều chặng đường, trên tất cả các phương diện của sáng tạo, trong đó nếu có một phương diện quan trọng và cốt lõi nhất thì đó là cảm hứng; bởi nhìn vào sự thay đổi của cảm hứng có thể nhận diện và đánh giá những chuyển động lớn của lịch sử trong hơn một thế kỷ văn học hiện đại, tính từ thập niên mở đầu thế kỷ XX cho đến hôm nay. Từ góc nhìn cảm hứng để nhận diện gương mặt văn chương học thuật nói riêng và sự sống tinh thần của dân tộc nói chung ta sẽ thấy một chuyển đổi mang tầm thời đại đã diễn ra trong thập niên đầu thế kỷ XX, trước hai mục tiêu Văn minhDân chủ của các nhà Nho - canh tân, trong ba phong trào Duy Tân, Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục, qua những áng văn như Văn minh tân học sách, và những vần thơ thống thiết hướng về Dân và Nước:

Người dân ta, của dân ta
Dân là dân nước, nước là nước dân

Đây là một khởi động vĩ đại trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, khi chuyển từ Vua sang Dân, khi gắn Dân và Nước. Phải từ khởi điểm đó, từ ý thức về Dân chủ và Chủ quyền dân tộc đó, để hiểu chính cảm hứng về Dân và Nước rồi sẽ là nội dung xuyên suốt đời sống văn hóa - tinh thần Việt Nam thế kỷ XX. Nó nối kết liền mạch với kỷ nguyên Dân chủ Cộng hòa - kể từ Tháng Tám 1945; với khẩu hiệu “Lấy Dân làm gốc” năm 1986; và với mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,… hôm nay.

Với mục tiêu Dân và Nước cả một thế hệ các nhà Nho - chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền đã không quản hy sinh, chấp nhận mọi khổ ải của lưu đày…

Khi xã hội thuộc địa hình thành và đời sống đô thị cùng các tầng lớp cư dân mới xuất hiện trong và sau hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp thì nhu cầu hiện đại hóa nhằm vào mục tiêu Văn minh trong đời sống văn chương học thuật nổi lên, như một yêu cầu của thời đại; và đó là cơ sở cho sự xuất hiện các trào lưu văn học, dựa theo mô hình phương Tây. Và cùng với chuyển động này mà xuất hiện một cảm hứng mới - đó là cảm hứng về cái Tôi, và cái Riêng, nó là nhu cầu giải phóng cá nhân trong một xã hội tuy bị đặt dưới sự thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây, nhưng lại có căn rễ phong kiến phương Đông hàng nghìn năm. Cái Tôi, cái Riêng lần đầu tiên xuất hiện như một hiện tượng không chỉ mới, mà còn lạ, qua thơ Xuân Diệu:

Ta một mình như núi đứng riêng tây

Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất

Nhưng cái tôi ấy, dẫu là mới, vẫn chỉ là một sự lóe sáng nhất thời trong khoảng trên dưới 10 năm; bởi nó thiếu những cơ sở kinh tế, xã hội cho sự tồn tại; nên sau sự lóe sáng nhất thời, nó nhanh chóng trở nên lụi tàn và đi vào bế tắc, như trong thơ Vũ Hoàng Chương:

Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh

Vũ Hoàng Chương đã nói rất thực gương mặt và thân phận của cả một lớp người, chứ không hề thi vị hóa, thế mà cả Xuân Diệu - người khai mở, và Vũ Hoàng Chương - người kết thúc đều bị phê phán suốt hơn nửa thế kỷ.

Cách mạng Tháng Tám 1945 đưa dân tộc vào kỷ nguyên Độc lập, Tự do. Đó là cơ sở cho một cảm hứng mới xuất hiện - cảm hứng về cái Chungcái Ta, được biểu trưng trong một khái niệm mới là Đoàn thể1, nó như một điểm tựa lớn, một lẽ sống mới khiến cho con người, trước hết là những con người nhỏ bé, và cũng là con người cá nhân bỗng thay đổi hẳn tầm vóc và thân phận:

Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời
.
                        (Tố Hữu: Huế tháng Tám)

Và Hoài Thanh, tác giả Thi nhân Việt Nam có lẽ là người đầu tiên thức nhận sớm nhất sự chuyển đổi nhanh chóng và quyết liệt đó, trong một bút ký viết ngay sau ngày Cách mạng thành công: “Đoàn thể đã tái tạo chúng tôi; và trong bầu không khí mới của giang sơn, chúng tôi - những nạn nhân của thời đại “chữ Tôi”, hay gọi là tội nhân cũng được, chúng tôi thấy rằng đời sống riêng của cá nhân không có nghĩa gì trong đời sống bao la của Đoàn thể.”2

Đưa Đoàn thể lên một vị trí thiêng liêng, khẳng định cái Ta thay cho cái Tôi, cũng là khẳng định cái Chung thay cho cái Riêng - đó là định hướng, là nội dung bao trùm một thời dài trên dưới 40 năm, kể từ 1945 đến cuối thập niên 1980.

Ngót 40 năm cho một chuyển động từ cái Tôi sang cái Ta, từ cái Riêng sang cái Chung. Bốn mươi năm - đó là thời của chúng tôi. “Lũ chúng tôi, bọn người tứ xứ” (Hồng Nguyên). “Chúng ta đoàn áo vải” (Hoàng Trung Thông). “Vui sướng bao nhiêu tôi là đồng đội/ Của những người đi vô tận hôm nay” (Chính Hữu). Bốn mươi năm - “Những năm toàn đất nước có một tâm hồn, có chung khuôn mặt/ Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ in nhau” (Chế Lan Viên). Hướng về cái Chung, cái Ta nên sự giống nhau trở thành tiêu chí làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn mới, nói rộng hơn, một mỹ học mới, để phản ánh và nhân lên những động lực tinh thần rất cần cho một cuộc chiến quá dài những 40 năm, mà kẻ thù đến từ bất cứ đâu, là phương Bắc hoặc phương Tây cũng đều mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Cái giống, chứ không phải là cái khác phải trở thành mục tiêu tìm kiếm và đích đến cho bất cứ ai là người viết. “Núi Bắc, sông Nam đều giống Bác/ Nhìn một người ta nhìn ra cả nước/ Trán trông xa và mắt dõi về sâu” (Chế Lan Viên). “Đọc câu thơ đồng chí ngỡ thơ mình” (Tế Hanh)…

Bốn mươi năm cho một chuyển động như thế trong cảm hứng. Để từ nửa sau thập niên 1980 về sau sẽ là một chuyển động mới, cũng lại được khởi động, được bắt đầu từ Hoài Thanh trong một tâm sự riêng, trước khi qua đời, năm 1982, với con trai trưởng Từ Sơn: “Cha biết văn chương của cha cũng vầy vậy thôi. Nếu không có cuốn Thi nhân Việt Nam thì không chắc gì người ta đã công nhận cha thực sự là một nhà văn”3. Vậy là, vẫn Hoài Thanh - người sớm nhất phát ngôn cho một cảm hứng mới, sau hai lần khẳng định và phủ định cái Tôi, đã lại trở về với những giá trị tổng kết “một thời đại trong thi ca” mà Thi nhân Việt Nam mang lại - nó là giá trị thế kỷ như sự suy tôn của Hội thảo Kỷ niệm 10 năm ngày mất của Hoài Thanh và 50 năm ra đời của cuốn sách, vào tháng 3 năm 1992.

Vậy là từ 1982, Hoài Thanh, với cảm quan nhạy bén của mình, đã trở lại sự khẳng định giá trị một cuốn sách; và sau cuốn sách là một phong trào có tên là Thơ mới, sau nhiều lần bị chính tác giả quay lưng hoặc dứt bỏ. Và với nhận thức đó, ông đã là một trong số ít người tiền trạm cho một giai đoạn văn học chính thức mở ra từ tháng 12/1986 - năm diễn ra Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, với hai tôn chỉ: “Lấy Dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Một cảm hứng mới, sẽ dồn tụ vào thời điểm này - chứ không phải sớm hơn hoặc muộn hơn, trước sau thời điểm 1985 - 40 năm sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Đó là cảm hứng về cái khác, để thay cho cái giống, nó là sự khởi động cho cái chung trở lại với cái riêng. Phải khác. Và đó là Thời xa vắng, xa vắng chứ không phải là hiện hữu - “một ngày bằng hai mươi năm”. Là Mùa lá rụng…, lá rụng chứ không phải nở hoa - “Đất nở hoa” (tên một tập thơ của Huy Cận - 1961). Là Tướng về hưu, về hưu chứ không phải xông pha trên chiến trận. Là Nỗi buồn chiến tranh, buồn, chứ không phải vui (Đường ra trận mùa này đẹp lắm… - thơ Phạm Tiến Duật). Là Bến không chồng, chứ không phải bến vui, bến đợi. Là Mảnh đất gồm cả người ma, chứ không phải đất làng, đất quê hương, thân thương, hoặc đất “nuôi ta thành dũng sĩ”. Phải khác, và đã khác, đó là đóng góp của một đội ngũ tiền trạm có tuổi đời từ 3x đến 5x như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Khánh, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Quang Thân, Thái Bá Lợi, Chu Lai, Đoàn Lê, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Trí Huân, Dương Hướng, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Trung Trung Đỉnh, Bảo Ninh, Khuất Quang Thụy, Dạ Ngân, Nguyễn Quang Lập… làm nên khúc dạo đầu tưng bừng cho một thời kỳ mang tên là Đổi mới, trước khi chuyển sang Hội nhập.

Sau thế hệ này sẽ có sự tiếp tục trong đồng hànhchuyển giao cho một thế hệ mới - thế hệ cuối 5x và 6x, rồi 7x xuất hiện và khẳng định vai trò của mình trong suốt thập niên 1990, thập niên đi qua hai mốc lịch sử lớn - đó là năm 1995, Việt Nam thoát khỏi thế cấm vận và gia nhập ASEAN; và năm 2000, thế giới chính thức bước vào cuộc Toàn cầu hóa lần thứ 34 gắn với Kỷ nguyên thông tin và Cách mạng số. Đó là Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Y Ban, Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh… Rồi kết nối với Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Trang Hạ, Nguyễn Bích Lan, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Ngọc Thuần, Phan Việt, Văn Cầm Hải, Vũ Đình Giang, Lưu Sơn Minh, Phan Huyền Thư… cho đến Vi Thùy Linh - sinh năm 1980. Đây là thế hệ, theo tôi, gần như đã thoát khỏi các ràng buộc hoặc áp lực của truyền thống, và xác lập được những dấu ấn riêng; thế hệ nếu xuất hiện từ đầu 1990, thì đến nay cũng đã có thâm niên viết trên 30 năm. Vậy là một chu kỳ, hoặc một thời kỳ mới lại tiếp nối mà những tên tuổi tôi nêu trên chỉ là một tỷ lệ nhỏ trong toàn bộ những gì đã xuất hiện trong sinh hoạt văn chương, học thuật mà đội ngũ là gối liền nhau, không đứt đoạn. Và, nhìn vào lịch sử, qua các mùa màng như mùa tiền chiến 1930 - 1945, mùa kháng chiến 1945 - 1975, mùa tiền Đổi mới và Đổi mới 1980 - 1995 mà những cây bút sung mãn đóng vai trò chủ công đều ở lứa tuổi 20 hoặc trên dưới 30 - thì với giai đoạn mới mở ra từ sau 1995 cho đến nay, lực lượng chủ công phải là thuộc thế hệ giữa 8x hoặc 9x trở đi. Chính thế hệ này sẽ hoặc đã gánh vác vai trò lịch sử của họ - để thay cho các thế hệ tiền bối gồm từ 3x, dẫu không ít người thuộc thế hệ này như Ma Văn Kháng, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Bắc Sơn, Chu Lai, Đỗ Chu, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Nhuận Minh… vẫn còn dồi dào năng lượng, nhưng nhìn chung cả đội ngũ thì chỉ nên là người đồng hành hoặc cổ vũ.

Thế nhưng nếu đời sống văn học đang rất sôi động và tưng bừng với sự xuất hiện những tên tuổi mới, nhờ vào các phương tiện thông tin mà đến rất nhanh và phủ rất rộng thế giới đọc, gồm cả thực và ảo, thì hoạt động của Hội Nhà văn, với trên 1000 hội viên hôm nay - số rất lớn đều đã đứng tuổi, hoặc đã ngừng viết từ lâu, quả chỉ là một tỷ lệ nhỏ. Và những gì đang diễn ra ngoài Hội - đó là những tìm tòi xem ra khá nhộn nhịp của những người viết ở thế hệ 9x mà số rất lớn, nếu không nói là tất cả đều không mang Thẻ hội viên. Những tìm tòi, theo quan sát của tôi, đó là sự ráo riết săn tìm cái riêngcái khác, để mong đến với cái mới. Những cuộc tìm tạo ra sự “muôn hồng nghìn tía” của bức tranh chung, tạo ra nhiều cái lạ, trong đó khó tránh có những cái lạ chỉ là sự lập dị, sự khác người, để được nổi tiếng, hoặc để bị tai tiếng, chứ không phải là cái mới đích thực vốn là, hoặc phải là sự xác lập một phẩm chất, một giá trị cao hơn. Một giá trị, đó phải là đến từ cái mới chứ không phải cái lạ. Một giá trị, nếu đúng là giá trị thì phải là cái riêng và cái khác; nhưng không phải cái riêng hoặc cái khác nào cũng tạo nên giá trị… Đó là những gì đã được lịch sử chứng minh, chứ không phải một khẳng định vu vơ. Do vậy nếu có gì cần chia sẻ với các thế hệ trẻ, ở tuổi sung sức hôm nay, tôi chỉ muốn chia sẻ điều ấy. Và nếu có gì cần đóng góp với Hội Nhà văn hôm nay, sau 10 kỳ Đại hội mà 9 cuộc tôi chính thức được dự, tôi chỉ muốn nói một điều: Hãy đến với thế hệ trẻ. Hãy mở rộng các phương thức hoạt động, và tăng sức hấp dẫn, để đưa vào quỹ đạo sáng tạo mọi tiềm năng của thế hệ trẻ, qua đó khởi động và tỏa rộng những cảm hứng mới cho họ, và cũng là cho Hội; những cảm hứng gồm cả Tôi và Ta, cả Riêng và Chung, cả Khác và Giống, cả Lạ và Quen, để tạo nên những mùa màng mới, xứng với Tổ quốc, với Nhân dân, với Dân tộc, với Thời đại. Nhìn lại hơn một thế kỷ hiện đại hóa, các thế hệ ông, cha đã thế thì các thế hệ hôm nay cũng không thể khác, nếu không nói là phải vươn cao hơn, vượt trội hơn. Đó là niềm tin của tôi. Niềm tin về cái hậu cho mỗi đời người và chung cho mọi người. Một niềm tin vốn đã có sẵn trong tâm thức dân tộc: “Tre già măng mọc”, “Trẻ cậy cha, già cậy con”, “Con hơn cha là nhà có phúc”…

P.L
(TCSH434/04-2025)

-------------------
1 Đoàn thể - đó là Đảng (lúc này sau khi tuyên bố tự giải tán, đã rút vào bí mật, hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác, cho đến 1953) và các tổ chức quần chúng trong Mặt trận Việt Minh, và sau đó là Mặt trận Liên Việt, do Đảng lãnh đạo.
2 Dân khí miền Trung; Tiên phong số 3/1945.
3 Di bút và di cảo; Nxb. Văn học; 1993; tr.200.
4 Theo Thomas L.Friedman trong Thế giới phẳng (tóm lược thế giới thế kỷ XXI); bản dịch của Nxb. Trẻ; 2006.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.