Cần đặt hành trình trên vào tổng thể, hoặc toàn cảnh văn học Việt Nam hiện đại, hoặc văn học thế kỷ XX để thấy tính kế thừa và tính chuyển đổi của nó. Và như vậy cần chú ý các mốc lịch sử lớn tác động và làm thay đổi diện mạo văn học qua nhiều chặng đường, trên tất cả các phương diện của sáng tạo, trong đó nếu có một phương diện quan trọng và cốt lõi nhất thì đó là cảm hứng; bởi nhìn vào sự thay đổi của cảm hứng có thể nhận diện và đánh giá những chuyển động lớn của lịch sử trong hơn một thế kỷ văn học hiện đại, tính từ thập niên mở đầu thế kỷ XX cho đến hôm nay. Từ góc nhìn cảm hứng để nhận diện gương mặt văn chương học thuật nói riêng và sự sống tinh thần của dân tộc nói chung ta sẽ thấy một chuyển đổi mang tầm thời đại đã diễn ra trong thập niên đầu thế kỷ XX, trước hai mục tiêu Văn minh và Dân chủ của các nhà Nho - canh tân, trong ba phong trào Duy Tân, Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục, qua những áng văn như Văn minh tân học sách, và những vần thơ thống thiết hướng về Dân và Nước:
Người dân ta, của dân ta
Dân là dân nước, nước là nước dân
Đây là một khởi động vĩ đại trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, khi chuyển từ Vua sang Dân, khi gắn Dân và Nước. Phải từ khởi điểm đó, từ ý thức về Dân chủ và Chủ quyền dân tộc đó, để hiểu chính cảm hứng về Dân và Nước rồi sẽ là nội dung xuyên suốt đời sống văn hóa - tinh thần Việt Nam thế kỷ XX. Nó nối kết liền mạch với kỷ nguyên Dân chủ Cộng hòa - kể từ Tháng Tám 1945; với khẩu hiệu “Lấy Dân làm gốc” năm 1986; và với mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,… hôm nay.
Với mục tiêu Dân và Nước cả một thế hệ các nhà Nho - chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền đã không quản hy sinh, chấp nhận mọi khổ ải của lưu đày…
Khi xã hội thuộc địa hình thành và đời sống đô thị cùng các tầng lớp cư dân mới xuất hiện trong và sau hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp thì nhu cầu hiện đại hóa nhằm vào mục tiêu Văn minh trong đời sống văn chương học thuật nổi lên, như một yêu cầu của thời đại; và đó là cơ sở cho sự xuất hiện các trào lưu văn học, dựa theo mô hình phương Tây. Và cùng với chuyển động này mà xuất hiện một cảm hứng mới - đó là cảm hứng về cái Tôi, và cái Riêng, nó là nhu cầu giải phóng cá nhân trong một xã hội tuy bị đặt dưới sự thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây, nhưng lại có căn rễ phong kiến phương Đông hàng nghìn năm. Cái Tôi, cái Riêng lần đầu tiên xuất hiện như một hiện tượng không chỉ mới, mà còn lạ, qua thơ Xuân Diệu:
Ta một mình như núi đứng riêng tây
…
Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Nhưng cái tôi ấy, dẫu là mới, vẫn chỉ là một sự lóe sáng nhất thời trong khoảng trên dưới 10 năm; bởi nó thiếu những cơ sở kinh tế, xã hội cho sự tồn tại; nên sau sự lóe sáng nhất thời, nó nhanh chóng trở nên lụi tàn và đi vào bế tắc, như trong thơ Vũ Hoàng Chương:
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh
Vũ Hoàng Chương đã nói rất thực gương mặt và thân phận của cả một lớp người, chứ không hề thi vị hóa, thế mà cả Xuân Diệu - người khai mở, và Vũ Hoàng Chương - người kết thúc đều bị phê phán suốt hơn nửa thế kỷ.
Cách mạng Tháng Tám 1945 đưa dân tộc vào kỷ nguyên Độc lập, Tự do. Đó là cơ sở cho một cảm hứng mới xuất hiện - cảm hứng về cái Chung và cái Ta, được biểu trưng trong một khái niệm mới là Đoàn thể1, nó như một điểm tựa lớn, một lẽ sống mới khiến cho con người, trước hết là những con người nhỏ bé, và cũng là con người cá nhân bỗng thay đổi hẳn tầm vóc và thân phận:
Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời.
(Tố Hữu: Huế tháng Tám)
Và Hoài Thanh, tác giả Thi nhân Việt Nam có lẽ là người đầu tiên thức nhận sớm nhất sự chuyển đổi nhanh chóng và quyết liệt đó, trong một bút ký viết ngay sau ngày Cách mạng thành công: “Đoàn thể đã tái tạo chúng tôi; và trong bầu không khí mới của giang sơn, chúng tôi - những nạn nhân của thời đại “chữ Tôi”, hay gọi là tội nhân cũng được, chúng tôi thấy rằng đời sống riêng của cá nhân không có nghĩa gì trong đời sống bao la của Đoàn thể.”2
Đưa Đoàn thể lên một vị trí thiêng liêng, khẳng định cái Ta thay cho cái Tôi, cũng là khẳng định cái Chung thay cho cái Riêng - đó là định hướng, là nội dung bao trùm một thời dài trên dưới 40 năm, kể từ 1945 đến cuối thập niên 1980.
Ngót 40 năm cho một chuyển động từ cái Tôi sang cái Ta, từ cái Riêng sang cái Chung. Bốn mươi năm - đó là thời của chúng tôi. “Lũ chúng tôi, bọn người tứ xứ” (Hồng Nguyên). “Chúng ta đoàn áo vải” (Hoàng Trung Thông). “Vui sướng bao nhiêu tôi là đồng đội/ Của những người đi vô tận hôm nay” (Chính Hữu). Bốn mươi năm - “Những năm toàn đất nước có một tâm hồn, có chung khuôn mặt/ Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ in nhau” (Chế Lan Viên). Hướng về cái Chung, cái Ta nên sự giống nhau trở thành tiêu chí làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn mới, nói rộng hơn, một mỹ học mới, để phản ánh và nhân lên những động lực tinh thần rất cần cho một cuộc chiến quá dài những 40 năm, mà kẻ thù đến từ bất cứ đâu, là phương Bắc hoặc phương Tây cũng đều mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Cái giống, chứ không phải là cái khác phải trở thành mục tiêu tìm kiếm và đích đến cho bất cứ ai là người viết. “Núi Bắc, sông Nam đều giống Bác/ Nhìn một người ta nhìn ra cả nước/ Trán trông xa và mắt dõi về sâu” (Chế Lan Viên). “Đọc câu thơ đồng chí ngỡ thơ mình” (Tế Hanh)…
Bốn mươi năm cho một chuyển động như thế trong cảm hứng. Để từ nửa sau thập niên 1980 về sau sẽ là một chuyển động mới, cũng lại được khởi động, được bắt đầu từ Hoài Thanh trong một tâm sự riêng, trước khi qua đời, năm 1982, với con trai trưởng Từ Sơn: “Cha biết văn chương của cha cũng vầy vậy thôi. Nếu không có cuốn Thi nhân Việt Nam thì không chắc gì người ta đã công nhận cha thực sự là một nhà văn”3. Vậy là, vẫn Hoài Thanh - người sớm nhất phát ngôn cho một cảm hứng mới, sau hai lần khẳng định và phủ định cái Tôi, đã lại trở về với những giá trị tổng kết “một thời đại trong thi ca” mà Thi nhân Việt Nam mang lại - nó là giá trị thế kỷ như sự suy tôn của Hội thảo Kỷ niệm 10 năm ngày mất của Hoài Thanh và 50 năm ra đời của cuốn sách, vào tháng 3 năm 1992.
Vậy là từ 1982, Hoài Thanh, với cảm quan nhạy bén của mình, đã trở lại sự khẳng định giá trị một cuốn sách; và sau cuốn sách là một phong trào có tên là Thơ mới, sau nhiều lần bị chính tác giả quay lưng hoặc dứt bỏ. Và với nhận thức đó, ông đã là một trong số ít người tiền trạm cho một giai đoạn văn học chính thức mở ra từ tháng 12/1986 - năm diễn ra Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, với hai tôn chỉ: “Lấy Dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Một cảm hứng mới, sẽ dồn tụ vào thời điểm này - chứ không phải sớm hơn hoặc muộn hơn, trước sau thời điểm 1985 - 40 năm sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Đó là cảm hứng về cái khác, để thay cho cái giống, nó là sự khởi động cho cái chung trở lại với cái riêng. Phải khác. Và đó là Thời xa vắng, xa vắng chứ không phải là hiện hữu - “một ngày bằng hai mươi năm”. Là Mùa lá rụng…, lá rụng chứ không phải nở hoa - “Đất nở hoa” (tên một tập thơ của Huy Cận - 1961). Là Tướng về hưu, về hưu chứ không phải xông pha trên chiến trận. Là Nỗi buồn chiến tranh, buồn, chứ không phải vui (Đường ra trận mùa này đẹp lắm… - thơ Phạm Tiến Duật). Là Bến không chồng, chứ không phải bến vui, bến đợi. Là Mảnh đất gồm cả người và ma, chứ không phải đất làng, đất quê hương, thân thương, hoặc đất “nuôi ta thành dũng sĩ”. Phải khác, và đã khác, đó là đóng góp của một đội ngũ tiền trạm có tuổi đời từ 3x đến 5x như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Khánh, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Quang Thân, Thái Bá Lợi, Chu Lai, Đoàn Lê, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Trí Huân, Dương Hướng, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Trung Trung Đỉnh, Bảo Ninh, Khuất Quang Thụy, Dạ Ngân, Nguyễn Quang Lập… làm nên khúc dạo đầu tưng bừng cho một thời kỳ mang tên là Đổi mới, trước khi chuyển sang Hội nhập.
Sau thế hệ này sẽ có sự tiếp tục trong đồng hành và chuyển giao cho một thế hệ mới - thế hệ cuối 5x và 6x, rồi 7x xuất hiện và khẳng định vai trò của mình trong suốt thập niên 1990, thập niên đi qua hai mốc lịch sử lớn - đó là năm 1995, Việt Nam thoát khỏi thế cấm vận và gia nhập ASEAN; và năm 2000, thế giới chính thức bước vào cuộc Toàn cầu hóa lần thứ 34 gắn với Kỷ nguyên thông tin và Cách mạng số. Đó là Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Y Ban, Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh… Rồi kết nối với Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Trang Hạ, Nguyễn Bích Lan, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Ngọc Thuần, Phan Việt, Văn Cầm Hải, Vũ Đình Giang, Lưu Sơn Minh, Phan Huyền Thư… cho đến Vi Thùy Linh - sinh năm 1980. Đây là thế hệ, theo tôi, gần như đã thoát khỏi các ràng buộc hoặc áp lực của truyền thống, và xác lập được những dấu ấn riêng; thế hệ nếu xuất hiện từ đầu 1990, thì đến nay cũng đã có thâm niên viết trên 30 năm. Vậy là một chu kỳ, hoặc một thời kỳ mới lại tiếp nối mà những tên tuổi tôi nêu trên chỉ là một tỷ lệ nhỏ trong toàn bộ những gì đã xuất hiện trong sinh hoạt văn chương, học thuật mà đội ngũ là gối liền nhau, không đứt đoạn. Và, nhìn vào lịch sử, qua các mùa màng như mùa tiền chiến 1930 - 1945, mùa kháng chiến 1945 - 1975, mùa tiền Đổi mới và Đổi mới 1980 - 1995 mà những cây bút sung mãn đóng vai trò chủ công đều ở lứa tuổi 20 hoặc trên dưới 30 - thì với giai đoạn mới mở ra từ sau 1995 cho đến nay, lực lượng chủ công phải là thuộc thế hệ giữa 8x hoặc 9x trở đi. Chính thế hệ này sẽ hoặc đã gánh vác vai trò lịch sử của họ - để thay cho các thế hệ tiền bối gồm từ 3x, dẫu không ít người thuộc thế hệ này như Ma Văn Kháng, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Bắc Sơn, Chu Lai, Đỗ Chu, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Nhuận Minh… vẫn còn dồi dào năng lượng, nhưng nhìn chung cả đội ngũ thì chỉ nên là người đồng hành hoặc cổ vũ.
Thế nhưng nếu đời sống văn học đang rất sôi động và tưng bừng với sự xuất hiện những tên tuổi mới, nhờ vào các phương tiện thông tin mà đến rất nhanh và phủ rất rộng thế giới đọc, gồm cả thực và ảo, thì hoạt động của Hội Nhà văn, với trên 1000 hội viên hôm nay - số rất lớn đều đã đứng tuổi, hoặc đã ngừng viết từ lâu, quả chỉ là một tỷ lệ nhỏ. Và những gì đang diễn ra ở ngoài Hội - đó là những tìm tòi xem ra khá nhộn nhịp của những người viết ở thế hệ 9x mà số rất lớn, nếu không nói là tất cả đều không mang Thẻ hội viên. Những tìm tòi, theo quan sát của tôi, đó là sự ráo riết săn tìm cái riêng và cái khác, để mong đến với cái mới. Những cuộc tìm tạo ra sự “muôn hồng nghìn tía” của bức tranh chung, tạo ra nhiều cái lạ, trong đó khó tránh có những cái lạ chỉ là sự lập dị, sự khác người, để được nổi tiếng, hoặc để bị tai tiếng, chứ không phải là cái mới đích thực vốn là, hoặc phải là sự xác lập một phẩm chất, một giá trị cao hơn. Một giá trị, đó phải là đến từ cái mới chứ không phải cái lạ. Một giá trị, nếu đúng là giá trị thì phải là cái riêng và cái khác; nhưng không phải cái riêng hoặc cái khác nào cũng tạo nên giá trị… Đó là những gì đã được lịch sử chứng minh, chứ không phải một khẳng định vu vơ. Do vậy nếu có gì cần chia sẻ với các thế hệ trẻ, ở tuổi sung sức hôm nay, tôi chỉ muốn chia sẻ điều ấy. Và nếu có gì cần đóng góp với Hội Nhà văn hôm nay, sau 10 kỳ Đại hội mà 9 cuộc tôi chính thức được dự, tôi chỉ muốn nói một điều: Hãy đến với thế hệ trẻ. Hãy mở rộng các phương thức hoạt động, và tăng sức hấp dẫn, để đưa vào quỹ đạo sáng tạo mọi tiềm năng của thế hệ trẻ, qua đó khởi động và tỏa rộng những cảm hứng mới cho họ, và cũng là cho Hội; những cảm hứng gồm cả Tôi và Ta, cả Riêng và Chung, cả Khác và Giống, cả Lạ và Quen, để tạo nên những mùa màng mới, xứng với Tổ quốc, với Nhân dân, với Dân tộc, với Thời đại. Nhìn lại hơn một thế kỷ hiện đại hóa, các thế hệ ông, cha đã thế thì các thế hệ hôm nay cũng không thể khác, nếu không nói là phải vươn cao hơn, vượt trội hơn. Đó là niềm tin của tôi. Niềm tin về cái hậu cho mỗi đời người và chung cho mọi người. Một niềm tin vốn đã có sẵn trong tâm thức dân tộc: “Tre già măng mọc”, “Trẻ cậy cha, già cậy con”, “Con hơn cha là nhà có phúc”…
P.L
(TCSH434/04-2025)
-------------------
1 Đoàn thể - đó là Đảng (lúc này sau khi tuyên bố tự giải tán, đã rút vào bí mật, hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác, cho đến 1953) và các tổ chức quần chúng trong Mặt trận Việt Minh, và sau đó là Mặt trận Liên Việt, do Đảng lãnh đạo.
2 Dân khí miền Trung; Tiên phong số 3/1945.
3 Di bút và di cảo; Nxb. Văn học; 1993; tr.200.
4 Theo Thomas L.Friedman trong Thế giới phẳng (tóm lược thế giới thế kỷ XXI); bản dịch của Nxb. Trẻ; 2006.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...