Một mối tình trong những lời thơ ấy

10:19 13/10/2010
LƯƠNG ANNhớ có một bài thơ “nói láo” nào đó, khi kết thúc đã nói đến một điều không thể được là làm cho “mấy nàng công chúa phải say mê”. Bài thơ nói đúng với những chàng trai bất tài. Còn trường hợp có tài thì sự việc sẽ khác. Một câu chuyện tình trong đời của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh đã chứng minh điều đó.

Phủ Tùng Thiện Vương - Ảnh: lieuquanhue

Nguyễn Hàm Ninh - như chúng ta đều biết - là người thôn Trung Thuần, bây giờ thuộc xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch. Ông tự là Tĩnh Trai, biệt hiệu là Thuận Chi, đỗ giải nguyên năm 1831 (1). Thời gian giữ một chức quan nhỏ tại Huế, qua môi giới của thơ văn, ông kết giao với Tùng Thiện Công Miên Thẩm. Dần dần, tình bạn giữa hai người trở nên mật thiết. Bài thơ đầu tiên Miên Thẩm viết về ông là vào mùa thu năm 1840, lúc cùng nhau ngồi trong vườn uống rượu, ngâm thơ (2).

Năm 1847, Tùng Thiện Công xây dựng vườn Ký Thưởng và Tiêu Viên bên bờ sông Lợi Nông, rồi hai năm sau, đưa mẹ sinh và ba người em gái cùng mẹ về chung ở. Ba người em gái này là Vĩnh Trinh, hiệu Nguyệt Đình, tức Quy Đức công chúa, Trinh Thận, hiệu Mai Am tức Lại Đức công chúa, và Tĩnh Hòa, hiệu Huệ Phố (còn có hiệu nữa là Trường Sơn), tức Thuận Lễ công chúa; cũng như anh ruột, ba chị em đều hay thơ. Là bạn thơ của Miên Thẩm: không lâu, Nguyễn Hàm Ninh cũng trở thành bạn thơ của ba bà chúa trẻ, chưa chồng.

Bến sông Lợi Nông trước Phủ Tùng Thiện Vương-nơi lưu dấu nhiều bước chân văn nhân tài tử xưa - Ảnh: lieuquanhue


Vốn là một con người vui tính, hay đùa nghịch song rất đa tình, nên mặc dầu lúc này ông đã cáo quan về nhà gần hai năm (3), thỉnh thoảng mới vào thăm Miên Thẩm, nhất là đã có vợ con rồi, nhưng ông vẫn thấy lòng xao xuyến trước con người tài hoa cùng với tuổi xuân hơ hớ của họ. Chúng ta thông cảm cho ông, một con người sống có phần phóng túng, mê rượu, mê cô đầu, ít khi tự ràng buộc vào khuôn phép. Hơn nữa, xã hội năm thê bảy thiếp lúc bấy giờ có cấm đoán gì điều ấy đâu. Từ mối yêu đương thầm lặng của mình, ông viết một bài thơ thăm dò ý tứ. Bài thơ nhan đề là “Vô đề”:

Thập nhị châu lan nhẫm tử yên
Đào hoa như cẩm thảo như chiên
Sơ liên thanh điệm vi kỳ địa
Tế Tuyết hàn mai vịnh nhứ thiên
Quyên phẩn bôi trung tương tiên tửu
Đồng tâm trướng để tiểu du tiên
Xuân phong nhất khứ vô tiêu tức
Lưu dữ anh kha thoại cựu duyên


Tạm dịch:

Một dãy lan chờ khói tía tươi (4)
Hoa như gấm trải cỏ chăn phơi
Rèm thưa chiếu sạch cờ vây nước
Tuyết mỏng mai đông tứ vịnh trời
Trướng rũ chung lòng thơ thoát tục
Chén vui bỏ giận rượu nâng mời
Gió xuân đi mãi không hơi dạng
Duyên cũ còn anh vẹt nhắc thôi.


Bài thơ nói là không đề nhưng rõ ràng là có đề, chỉ không viết rõ ra mà thôi. Nội dung nhẹ nhàng, ý tứ bóng bẩy vừa kín vừa hở, chữ và điển cố dùng rất đắt (5) ướm lòng các bà chúa như vậy thì tuyệt. Đến Cao Bá Quát, một người nổi tiếng khó tính về thơ, cũng phải khen “Cao bộ Trung Đường, phủ thị chư tử” (bài thơ hay như của thời Trung Đường, vượt hẳn các nhà khác). Miên Thẩm cũng chịu là hay. Ông nhận ra ngay là một bài thơ “ve gái” và “ve” chính các em gái mình. Nhưng là một người độ lượng, ông lấy thơ làm chủ yếu, không quan tâm gì đến điều đó. Lời nhận xét của ông thật là chính xác: “Khả dịch Ngọc Khê, Phi Khanh, Đoan Kỷ đẳng, bất năng cập” (có thể sánh ngang với Ngọc Khê, bọn Phi Khanh, Đoan Kỷ không thể theo kịp). Ngọc Khê, Phi Khanh và Đoan Kỷ là những người làm thơ ghẹo các bà công chúa thời trước.

Nguyễn Hàm Ninh làm xong, gởi cho Huệ Phố. Một người thơ gởi thơ cho một người thơ xem, hơn nữa, nội dung xa xôi, không định vào một người nào cả, có ai bắt gì được. Nếu Huệ Phố muốn hiểu theo tình ý thì hiểu, không thì thôi. Song hình như Huệ Phố không phải là đối tượng chính của nhà thơ, cái đích của ông là Mai Am. Trong bài thơ ít nhiều có ẩn ý đó (6), Huệ Phố xem rồi thế nào chẳng đưa cho bà chị đọc. Thế là đạt ý muốn. Đối với Vĩnh Trinh, người lớn tuổi hơn cả, một người luôn luôn đặt mình vào phép tắc phong kiến, chắc rằng ông không muốn đụng vào. Còn Mai Am, trong con mắt ông, là con người tài hoa, con người đa cảm hơn cả trong ba chị em, vì vậy cũng là con người đáng yêu nhất (7).

Ông biết rất rõ mối tình của mình dầu có được đáp lại bằng một thái độ gì, rốt cuộc cũng chỉ là một mối tình vô vọng. Biết thế nhưng vẫn không thể cưỡng lại lòng mình. Năm 1850, Mai Am tuân theo gia pháp, đi lấy chồng. Nỗi nhớ khiến ông viết bài “Ức mai” (Nhớ mai):

Lâm đường tạc dạ sóc phong xuy
Tiểu các thanh hàn độc tọa trì
Địch lý quan sơn sầu cựu khúc
Thủy biên ly lạc nhận tiền kỳ
Hương nam tuyết bắc vô phương tấn
Nguyệt địa vân giai hữu mộng ti (tư)
Dục bả tân từ viễn tương tặng
Mỹ nhân uyển tại thủy chi my


Tạm dịch:

Đêm qua, đến, gió bắc rì rào
Ngồi một mình lâu, gác lạnh sao
Tiếng sáo cách xa buồn khúc cũ
Bờ sông rào dậu ấy ngày nào
Hương nam tuyết bắc tin không tới
Đất nguyệt thềm mây mộng nhớ nhau
Muốn gửi bài từ xa đến tặng
Thướt tha người ngọc bến hồ xao


Lời thơ không phong kín như bài trước. Có một cái gì chua xót bên trong. Nhớ một cành mai nhưng là nhớ một người. Người ấy, ngoài Mai Am, còn là ai khác nữa.

Bài thơ đến tay Mai Am. Bà đọc, lòng bồi hồi và xin tác giả cho đặt vào tập thơ của mình (Diệu Liên thi tập). Về sau, những lời gì của ông nói về bà, bà cũng chép vào cả. Điều này, trong bao nhiêu lý do, có lẽ có một lý do thầm kín. Mai Am lấy Thân Trọng Di, tuy là con một ông quan to, không đến nỗi văn dốt võ nát và cũng có lòng yêu nước (8) nhưng không có tài năng gì đáng kể, lại không ham thích thơ phú, do đó giữa hai người chưa thật tâm đầu ý hợp. Cuộc tình duyên vì vậy mà ngầm có ít nhiều bất như ý về phía Mai Am. Đọc thơ văn của bà, hơn một lần, chúng ta thấy thấp thoáng có bóng “một người đi qua”. Đây là những câu từ mang bóng dáng con người đó:

… Chào khách tiếng chim ngoài cửa
Thoạt nhớ một người những bữa
Xoắn xuýt giống tơ vò
Cho biết mối tình là ra rứa
Chan chứa chan chứa
Mòn mỏi mặt trăng hơn nữa


Những câu ca của bà cũng chứa đựng một cái gì in sâu vào lòng như vậy:

… Chuông bầu - giục sầu đòi khi
Chạnh vì - chạnh vì tình xưa
Màn loan bướm ong lửng lơ
Ngày dồn thoi én
Thu hết xuân về
Liễu giăng tơ
Nhạn thư vắng đưa
Biết ai có trông còn đợi
Lòng ta thêm ngại
Song giống đa tình
Dễ mấy ai đành…


Có thể nghĩ rằng bà đã hư cấu hoặc đứng vào tâm sự một người nào đó để viết. Nhưng ở đây, chúng ta gặp những hình ảnh chân thực quá, những tình cảm tha thiết quá, không phải là người trong cuộc khó viết nên nỗi.

Khu mộ của Nguyễn Hàm Ninh ở Quảng Lưu, Quảng Trạch, Quảng Bình - Ảnh: internet


Phần nhà thơ họ Nguyễn của chúng ta cũng vậy. Càng đi vào tuổi già, những con sóng ngầm càng vỗ mạnh trong lòng. Ông có một bài ca trù nói lên nỗi nhớ dằng dặc ấy:


Khúc tỳ bà bát ngát giữa giang thiên
Cảnh lão đại luống đau lòng tư mã
Trừ tịch chi dạ
            Thị dạ phi da (9)
Giữa vầng soi thấp thoáng mặt hằng nga
Còn nhớ khúc kỳ đình năm nọ
Gẫm thân thế luống nực cười sự cũ
Thôi thì thôi nhắc lại mà chi?

Trong lòng bạch phát hồng nhan
Trách con tạo điên đảo
                        đảo điên chi lắm bấy
Đôi tay áo rủ bụi đời thay thảy
Biết rằng đâu là ân là oán
                        là nợ là duyên
Vong tình là tiểu thần tiên


Ông tự nhủ: “Đi tìm người tình thì tuổi xuân mình đã hết - đã trải việc đời thì không gì bằng ôm gối ngủ yên” (10) và “vong tình là tiểu thần tiên” nhưng đâu dễ thế. Chẳng qua ông tự dối mình. Người mà ông không thể nào dối được, trước hết là ông anh Miên Thẩm. Miên Thẩm là người đã nhìn thấy tận trái tim của ông. Một lần vào Huế, đến thăm người bạn thơ thân thiết, ông không ở lại chơi lâu như trước. Miên Thẩm ghi lại buổi gặp mặt ngắn ngủi ấy:

Thập niên kinh để biệt
Dẫn tích trí thư bưu
Hữu tửu quân kiêm đáo
Vô quan khí ích tù
Sóc phong hào ngạn thụ
Lạc nhật động hồ lâu
Tảo văn sinh xuân thủy
Tâm tri bất khẳng lưu


Tạm dịch:

Mười năm cách biệt kinh đô
Bao nhiêu chuyện cũ qua thư đã tường
Anh vào, vừa có rượu ngon
Không ai quan, chí khí càng hăng sao
Bờ cây gió bắc rì rào
Nắng chiều rung bóng lầu cao trên hồ
Dòng xuân rồi sẽ lên lo
Biết không chịu ở chơi lâu đâu mà


Miên Thẩm đã nhắc lại “ngọn gió bắc” thổi trên bờ cây, bóng “lầu trên hồ” nơi Mai Am ở, “dòng nước” có bóng người “thướt tha”, những cảnh vật từ bài thơ “nhớ mai” mà ông biết là đang vào vò nát tâm can bạn và cho lòng mình biết bạn không muốn ở lại chơi lâu.

Nguyễn Hàm Ninh vội từ giã đất Huế, không phải chỉ để quên mà còn trốn những gì cứ làm đau nhói tâm can. Nhưng trốn làm sao được? Cảnh lão đại luống đau lòng tư mã, ông muốn những trái tim ông đâu có chịu khép lại.

Một mối tình man mác như hơi gió nhưng không thể nào tan. Biết đâu họ đã mang xuống tuyền đài. Điều chắc chắn hơn cả là nó cứ in dấu lên thơ văn của họ và còn lại mãi mãi như vang bóng Huế một thời (11).

L.A.
(6/4-84)


---------------
1. Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) có hai tập thơ văn: Tĩnh Trai thi văn tập Được sự ngẫu đề. Ông là một nhà thơ tiến bộ. Ông làm quan đến Án sát tỉnh Khánh Hòa rồi bị cách chức do một sơ suất trong đời sống. Sau đó, được phục chức nhưng sau khi Tự Đức lên ngôi, ông bất bình trước cái chết của Hồng Bảo nên cáo quan về làng.
2. Bài “Thu Viên đồng Thuận Chi đối chước” (vườn thu, cùng Thuận Chi uống rượu.
3. Theo bài thơ “Nguyễn Thuận Chi kiến phong đối ẩm” của Miên Thẩm thì ông cáo quan về năm 1847.
4. Mười hai cây châu lan trồng trước nhà màu tía, chỉ màu vua chúa thương dụng.
5. Bài thơ có một số điển tích rất gợi nhưng cũng rất khó diễn đạt khi dịch thành thơ. Song tiếc rằng một bài giới thiệu không thể cho phép phân tích đầy đủ.
6. Tế tuyết hàn mai: Tuyết mỏng mai non.
7. Về sau, Nguyễn Hàm Ninh có nói: “Ta học thơ với ngài Thương Sơn (tức Miên Thẩm) gần 20 năm, nay đọc thơ của một bà chúa em thì tự biết phận, chẳng những là làm học trò nơi nhà Tùng Vân (tức Miên Thẩm) mà còn phải làm học trò nơi đình Thinh Nguyệt (tức Mai Am) nữa”. Nguyễn Hàm Ninh nói không quá. Mai Am có một số bài thơ không những nổi tiếng lúc bấy giờ mà cho đến nay, vẫn còn có một giá trị nhất định. Chẳng hạn bài Mã Viện hay bài Độc điếu nghĩa dân tử trận văn.
8. Năm 1885, khi vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, ông chạy theo nhưng không đuổi kịp, bị ốm giữa rừng, vào trong một bộng cây mà chết.
9. Đêm cuối năm, có phải, không phải?
10. Nguyên văn chữ Hán: Tầm phương tự giác tạm xuân vãn/ Duyệt thế vô như bán chẩn nhàn.
11. Một số tài liệu trong bài này rút từ tập “Đời tài hoa” của Đẩu Tiếp Nguyễn Văn Đề và “Tùng Thiện Vương” của Ưng Trình.
Trong “Đời tài hoa”, tác giả còn ghi một bài thơ của Huệ phố viết khi sắp đi lấy chồng và gửi cho Nguyễn Hàm Ninh. Theo chúng tôi, ở đây không phải Huệ Phố nói đến mình mà muốn nói về Mai Am. Để các bạn đọc theo dõi và cũng để giới thiệu một bài thơ của Huệ Phố (Huệ Phố thi tập), chúng tôi trích đăng bài thơ đó:

Thực trúc dị mai cưỡng tự khoan
Giác vô ngôn xứ lộ nan can
Thương tâm đối thị đình tiền nguyệt
Bất tác đoàn loan cựu nhật khan

Tạm dịch:

Trồng trúc dời mai vui gượng gạo
Biết không nói được lệ khôn khô
Đau lòng trông mảnh trăng sân dọi
Chẳng thấy tròn như những buổi xưa.


Chúng ta gặp những ý như “dời mai”, chẳng chịu tròn lên (ý của Mai Am: mòn mỏi mặt trăng hơn nữa) có thể làm cơ sở cho nhận định này. Chắc là Huệ Phố đau buồn trước cảnh “ôm cầm thuyền ai” chưa được như ý của chị và gửi cho Nguyễn Hàm Ninh để nói lên lòng nuối tiếc của mình. Chẳng lẽ nhà thơ có tình ý với cả hai chị em và cả hai chị em đều có tình ý với nhà thơ.
Huệ Phố lấy Đặng Huy Cát và là mẹ của Đặng Huy Phổ, một nghĩa sĩ của phong trào Cần Vương. Cuộc tình duyên này không có gì “gượng gạo” về phía bà. Cái ý “nhà cao cửa lớn, vẫn giữ trọn đạo người vợ” (Võ hoành nhàn Nội tắc chi chương) trong câu đối ở mộ bà đã khẳng định điều đó.


Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.